Thứ Hai, 16 tháng 12, 2024

Bác sĩ Phùng Văn Cung- một trí thức lớn hết lòng vì nhân dân

Đó là những cánh rừng bạt ngàn rộng vài chục cây số nằm hai bên biên giới Việt Nam - Camphuchia kéo dài từ Nam Tây Nguyên đến tận ven Đồng Tháp Mười. Rừng với hai ba tầng với cây lớn vài người ôm.


Rừng sâu thường có nhiều thú dữ và khí độc. Rừng ôm vào lòng mình đầu nguồn các sông Đồng Nai, sông Bé, sông Vàm Cỏ Đông với những địa danh kèm theo sự nguy hiểm như Mã Đà, Bà Rá...


Bác sĩ Phùng Văn Cung (hàng đầu thứ 2 từ trái sang) cùng các vị lãnh đạo Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam tuyên thệ trước Đại hội lần thứ I của mặt trận ngày 10/2/1962. Ảnh: TL

Tuy nhiên, cánh rừng già này đã từng che chở cho quân và dân ta đánh Tây với những Chiến khu A, Chiến khu Đ, Chiến khu Dương Minh Châu... Từ sau ngày bộ đội đi tập kết ra Bắc, rừng già lại dày thêm âm u và đầy chướng khí. Mãi đến đầu năm 1959, các khu rừng già mới có bóng người. Đó là các chiến sĩ cách mạng trở lại rừng lập căn cứ chống Mỹ- Diệm.

Họ từ Campuchia về theo xe hơi rồi đi bộ tạt vào rừng. Họ từ đô thị lên trên những chuyến xe đò đến Củ Chi, Lộc Ninh rồi cắt rừng tìm về căn cứ... Xứ ủy Nam Bộ và sau này là Trung ương Cục- một phân bộ của Trung ương Đảng phụ trách miền Nam- đóng căn cứ tại đây. Các đồng chí lãnh đạo nằm võng, nằm vạc tre trong những mái nhà sơ sài, ăn cơm độn củ mì với muối ớt, cá khô.

Một buổi chiều cuối năm 1959, giao liên đưa về căn cứ một gia đình từ Sài Gòn ra. Hai vợ chồng một trí thức và hai cô con gái còn nhỏ. Họ đã phải đi bộ khá xa, đi qua hàng chục cây số rừng chồi, lội qua một quãng suối nước ngập đến ngực.

Các chiến sĩ phải vừa cõng, vừa khiêng cả gia đình qua những đoạn khó khăn. Đó là gia đình bác sĩ Phùng Văn Cung, từ Sài Gòn đến căn cứ- trở thành người trí thức Sài Gòn đầu tiên đến với căn cứ cách mạng bí mật nằm giữa vùng rừng thiêng nước độc.

Trong lúc anh em ở căn cứ, kể cả các đồng chí lãnh đạo đều mặc bà ba đen, quấn khăn rằn thì sự hiện diện của một gia đình “đặc sệt Sài Gòn” làm anh em bất ngờ. Họ đã chấp nhận rời xa ánh điện, nhà cao cửa rộng, cuộc sống đầy đủ, một bước lên xe để đi vào rừng miền Đông đi dép lốp, mặc áo thô, ăn cơm độn, tắm suối, ngủ võng...

Hai ông bà chắc đã chuẩn bị tốt nên bình tĩnh trước bao khó khăn gian khổ đã bày ra trước mặt. Chỉ có hai cháu nhỏ thì đổi thay quá đột ngột nên ngơ ngác, lo ngại. Các chiến sĩ đã dựng một căn nhà bằng lá trung quân, có giường vạc tre, có hầm kiên cố, có nhà vệ sinh, buồng tắm kín đáo...

Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Xứ ủy đã “mở tiệc chiêu đãi” gia đình bác sĩ Phùng Văn Cung: có cơm trắng, mắm chưng, khô chiên và canh rau...

Chỉ ít lâu sau cả gia đình bác sĩ Phùng Văn Cung đã hòa nhập cùng cán bộ chiến sĩ ở cơ quan. Bác sĩ Cung nhanh chóng bắt tay làm việc với các đồng chí lãnh đạo Xứ ủy tham gia dự thảo Chương trình 10 điểm, lời hiệu triệu nhân dân miền Nam của Mặt trận dân tộc giải phóng.

Ngày 20/12/1960, tại căn cứ Trảng Chiêng (Tây Ninh), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam tuyên bố thành lập với Chương trình 10 điểm và lời hiệu triệu nhân dân miền Nam đoàn kết đứng lên giành chính quyền.

Ngày 15/2/1961, Ủy ban Trung ương Lâm thời Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra mắt nhân dân vùng giải phóng; công bố lá cờ Mặt trận nửa đỏ, nửa xanh với ngôi sao vàng; công bố bài hát chính thức “Giải phóng miền Nam”.

Ban tổ chức giới thiệu Đoàn Chủ tịch buổi lễ và cũng là “bộ phận lâm thời” của Mặt trận dân tộc giải phóng gồm:

- Bác sĩ Phùng Văn Cung thay mặt cho giới trí thức miền Nam .

- Ông Nguyễn Văn Linh thay mặt Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam .

- Ông Ung Ngọc Ky thay mặt Đảng Dân chủ miền Nam Việt Nam .

- Ông Nguyễn Văn Hiếu thay mặt Đảng Xã hội cấp tiến miền Nam Việt Nam .

- Ông Lê Thanh thay mặt cho lực lượng võ trang miền Nam .

Bác sĩ Phùng Văn Cung chủ trì buổi lễ tuyên bố tiếp nhận thành viên mới là lực lượng vũ trang giải phòng- hợp nhất các đơn vị võ trang lẻ trở thành lực lượng thống nhất.

Tại buổi lễ, Đoàn Văn công Giải phóng đã biểu diễn vở cải lương “Trăng lên đỉnh núi” với câu hò: “Trời miền Nam u ám đã đến ngày sáng tươi”.

Ngày 30/10/1961, luật sư Nguyễn Hữu Thọ được lực lượng võ trang và nhân dân Phú Yên giải thoát khỏi nhà tù Tuy Hòa trở về khu căn cứ an toàn.

Ngày 16/2/1962 tại khu vực Xóm Giữa- Lò Gò (huyện Tân Biên, Tây Ninh), 80 đại biểu gồm trí thức, đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo, lực lượng võ trang đã tiến hành Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam lần thứ I.

Đại hội đã nhất trí cử 50 vị- có 20 vị còn hoạt động bí mật- vào Ủy ban Trung ương mặt trận. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được bầu làm chủ tịch. Các Phó Chủ tịch là kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, bác sĩ Phùng Văn Cung, ông Võ Chí Công, ông Ibi Alêô...

Sau cuộc đảo chính thất bại của quân đội Sài Gòn ngày 1/11/1963, tình hình miền Nam đã có nhiều chuyển biến. Mặt trận chủ trương phát động nhân dân miền Nam tiến hành cuộc đấu tranh mới để đánh gục kẻ thù.

Ngày 1/11/1964, Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam lần thứ 2 đã họp tại Khu căn cứ Tây Ninh. Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ tiếp tục được bầu làm chủ tịch. Bác sĩ Phùng Văn Cung được bầu làm Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam . Tháng 3/1964, bác sĩ Phùng Văn Cung được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam .

***

Bác sĩ Phùng Văn Cung là một trí thức yêu nước sinh ngày 15/5/1909 tại xã Tân An, Châu Thành, Vĩnh Long. Gia đình ông không khá giả, nhưng nhờ ông học giỏi nên được cấp học bổng từ trung học đến đại học.

Từ nhỏ ông đã có chí hướng gắn bó với công tác xã hội, giúp đỡ người nghèo. Vì vậy ông đã thi vào trường y tại Hà Nội. Năm 1937, tốt nghiệp đại học ông sang Pnôm Pênh làm việc. Hồi đó những người không chịu hợp tác với Pháp đều được đẩy sang Campuchia- trong đó có cả trường hợp của Luật sư Dương Minh Châu.

Khi Nhật đảo chính Pháp, hai ông bà chạy về Châu Đốc mở phòng khám, trực tiếp giúp dân nghèo và tham gia cách mạng. Tháng 8/1945, ông tham gia cướp chính quyền ở Sa Đéc. Ông tận tình chăm sóc bà con nghèo, có lúc che chở cho cán bộ cách mạng, chữa bệnh không lấy tiền của dân, gặp bệnh nhân nghèo còn cho tiền xe về quê.

Năm 1957, chính quyền Sài Gòn gọi ông ra làm giám đốc Sở Y tế Châu Đốc rồi Rạch Giá. Trong thời gian này có lúc ông trốn ra bưng biền giúp các bác sĩ kháng chiến điều trị cho thương binh. Lúc trở về, địch gọi đến truy hỏi, ông trả lời: “Tôi bị Việt Minh bắt vào bưng chữa trị cho thương binh rồi thả về. Các ông không bảo vệ được tôi tại sao còn tra hỏi...”


Bác Hồ vui mừng đón Bác sĩ Phùng Văn Cung -  đại diện quân dân miền Nam ra thăm. Ảnh: TL

Địch lại buộc ông nhận hàm thiếu tá ra làm giám đốc bệnh viện quân đội. Ông bỏ lên Sài Gòn làm ở Bệnh viện Triều Châu (nay là Bệnh viện Nguyễn Trãi). Tại đây hai ông bà quyên góp tiền bạc, thuốc men, tổ chức chuyển vũ khí ra chiến khu. Kẻ địch đánh hơi bắt ông giam vào phòng P42 sở mật thám khét tiếng tàn ác. Chúng hỏi: Tại sao ông cho hai con đi học Hà Nội. Ông bình thản trả lời:

- Sài Gòn cũng có các cháu đi học ở Nhật, Mỹ, Pháp... ở đâu phù hợp với trình độ với năng lực thì học. Tôi chọn nơi cho các cháu học không phải cho các cháu theo chế độ cộng sản. Chúng buộc ông “không được dính líu đến Việt cộng, nếu không sẽ bị đẩy xuống hầm a-xít”. Phùng Văn Chung vẫn một mực khai chỉ là một người thầy thuốc. Kẻ địch buộc phải thả ông, nhưng luôn bám sát, theo dõi, tìm cách hãm hại.

Do yêu cầu của cách mạng, các đồng chí lãnh đạo Xứ ủy Nam Bộ cho người vào Sài Gòn mời ông bà ra chiến khu. Vợ chồng ông sẵn sàng bỏ lại nhà cửa, cơ ngơi sang trọng tại Sài Gòn, một đêm trốn khỏi nơi ở theo giao liên ra căn cứ. Là một trí thức yêu nước, ông được vợ đồng tình ra đi với hai bàn tay trắng để tham gia kháng chiến, chấp nhận cuộc sống chiến đấu gian khổ ác liệt cùng các lực lượng yêu nước đánh đuổi ngoại xâm đem lại độc lập cho dân tộc.

Là một trí thức có tên tuổi ở Sài Gòn nhưng khi đến căn cứ gian khổ, ác liệt, bác sĩ Phùng Văn Cung vẫn bình tĩnh, điềm đạm chấp nhận mọi hoàn cảnh ở chiến khu. Với bộ bà ba đen ông sống giản dị, chan hòa với anh em cơ quan. “Bác Sáu”- tên gọi thân mật bác sĩ Phùng Văn Chung, là tấm gương chịu đựng gian khổ, về nếp sống giản dị, cách cư xử với anh em và tinh thần làm việc cần mẫn...

***

Đầu năm 1967, Mỹ mở cuộc càn Jan-xơn Siti, huy động 45.000 quân Mỹ- ngụy đánh vào căn cứ Tây Ninh nhằm tiêu diệt Bộ Chỉ huy cao cấp của cách mạng miền Nam. Với sự đánh trả quyết liệt của bộ đội chủ lực, của du kích... cơ quan, quân Mỹ đã phải chấp nhận thất bại. Các vị lãnh đạo Trung ương Cục, Mặt trận dân tộc giải phóng được bảo vệ an toàn.

Tháng 1/1968, cuộc tổng tấn công Mậu Thân nổ ra trên khắp các đô thị. Dưới lá cờ vẻ vang của Mặt trận dân tộc giải phóng, nhân dân ở các đô thị đã nêu cao lòng yêu nước tập hợp lực lượng liên kết với mặt trận để đánh bại kẻ thù.

Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình miền Nam Việt Nam được thành lập do luật sư Trịnh Đình Thảo đứng đầu đã liên hiệp với Mặt trận dân tộc giải phóng thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam vào tháng 6/1969. Bác sĩ Phùng Văn Cung được tín nhiệm cử làm Phó Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

Được tin sức khỏe Bác Hồ ngày càng giảm sút, mặt trận liên minh và Chính phủ quyết định cử một đoàn đại biểu do bác sĩ Phùng Văn Cung dẫn đầu bằng đường đặc biệt ra thăm Bác Hồ và miền Bắc. Bác sĩ Phùng Văn Cung và đoàn đại biểu được Bác Hồ tiếp thân mật. Bác sĩ Phùng Văn Cung thay mặt nhân dân miền Nam mong Bác sống lâu trăm tuổi để có thể về thăm miền Nam . Đáng tiếc chỉ vài tháng sau, Bác Hồ đã vĩnh viễn đi xa.

Trở lại miền Nam, bác sĩ Phùng Văn Cung tiếp tục cùng các vị lãnh đạo mặt trận, Chính phủ chỉ đạo cuộc chiến đấu kiên cường, liên tục giải phóng các vùng rộng lớn- trong đó có Lộc Ninh đã trở thành thủ phủ của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Tại đây, Chính phủ đã tiếp khách từ Sài Gòn ra, tiếp Ủy ban Quốc tế, Ủy ban Liên hợp quân sự bốn bên, tiếp cán bộ chiến sĩ và đồng bào từ nhà tù Mỹ ngụy trở về, tiếp lực lượng thứ ba bị Mỹ đẩy ra khỏi Sài Gòn.

Vào giữa tháng 5/1973, tại Lộc Ninh, bác sĩ Phùng Văn Cung và các vị lãnh đạo mặt trận, liên minh và Chính phủ đã tiếp thân mật đồng chí Tố Hữu, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên huấn từ miền Bắc vào thăm vùng giải phóng miền Nam.

Sau ngày miền Nam giải phóng thống nhất đất nước, tháng 2/1977 tại Đại hội thống nhất mặt trận toàn quốc bác sĩ Phùng Văn Cung được cử làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Ông bị bệnh nặng, trở về sống trong ngôi nhà đơn sơ của con trai và ra đi ngày 7/11/1987.

Tại TP Hồ Chí Minh hiện có một con đường mang tên Phùng Văn Cung tại quận Phú Nhuận.

***

Nhắc đến bác sĩ Phùng Văn Cung phải nói đến sự yêu thương, chăm sóc của vợ ông là Lê Thoại Chi. Bà không chỉ là một nhà yêu nước mà còn là chỗ dựa vững chắc cho ông hoạt động cách mạng, tạo điều kiện cho cả bốn người con đều ra Bắc học trở thành các bác sĩ giỏi của ngành.

Gia đình bà Chi rất khá giả. Bà có một cuộc sống rất sung túc nhưng lại yêu thương, giúp đỡ người nghèo ngay từ hồi còn nhỏ. Bà lập gia đình với ông Phùng Văn Cung- lúc đó là sinh viên học ở Hà Nội. Bà sắp xếp ra Bắc nuôi chồng để ông đậu bằng bác sĩ. Khi ông tốt nghiệp hai ông bà làm việc ở Pnôm Pênh rồi trở về Châu Đốc.

Cũng như ông, bà gắn bó với cuộc chiến đấu của nhân dân ta đánh thực dân Pháp. Bà cùng ông nuôi dưỡng cán bộ cách mạng, chữa trị thương tích cho bộ đội, giúp đỡ người nghèo. Có lần bà đã mạnh dạn cho ông nhận một nữ cán bộ cách mạng là người yêu để đề nghị chính quyền địch thả khỏi trại giam.

Khi lên rừng tham gia cách mạng cùng ông, là phụ nữ quán xuyến gia đình bà đã chấp nhận bỏ lại sau nhà cửa, tiền bạc. Bà mạnh dạn dắt hai con gái còn nhỏ cùng vào rừng tham gia kháng chiến. Tháng 3/1965 bà được bầu vào Ban thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam . Để tạo điều kiện cho hai ông bà yên tâm tham gia kháng chiến, năm 1960 được gửi hai con gái là Phùng Ngọc Sương và Phùng Ngọc Lan ra Bắc học tập.

Sau này khi bác sĩ Phùng Văn Cung nhận Huân chương Độc lập hạng nhất, ông xúc động nói:

- Đáng lẽ tấm huân chương này dành cho vợ tôi...

***

Bác sĩ Phùng Văn Cung- người mà nhân dân và chiến sĩ miền Nam gọi với tên thân mật là ông Sáu Cung- đã cống hiến trọn đời cho dân cho nước. Bà Lê Thoại Chi- vợ ông cũng nêu một tấm gương “trung hậu, đảm đang”| hết lòng vì dân vì sự nghiệp giải phóng miền Nam , thống nhất đất nước.

Hai ông bà đã từ bỏ cơ ngơi lớn lao tại Sài Gòn “như một đống vàng” để đi vào cách mạng với hai bàn tay trắng. Ông bà đã nêu một tấm gương cao quý cho bao trí thức ngày đó, bỏ lại giàu sang phú quý để đi vào cuộc kháng chiến đầy gian khổ, ác liệt vì nước, vì dân.

Phùng Văn Cung là một trí thức lớn, với lòng yêu nước cao cả đã sát cánh cùng Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ giương cao ngọn cờ mặt trận vẻ vang, tập hợp mọi lực lượng yêu nước góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc.

ĐINH PHONG
(Nhà văn, Nhà báo)


BÁC SĨ PHÙNG VĂN CUNG - TRÍ THỨC CÁCH MẠNG, NGƯỜI CON TIÊU BIỂU CỦA VĨNH LONG 

(Tham luận trong Hội thảo "Nhà tri thức yêu nước Phùng Văn Cung với cách mạng miền Nam")

Bác sĩ Phùng Văn Cung là một trí thức, một nhà cách mạng yêu nước. Ông sinh ngày 15/5/1909 tại Thôn Tân Bình, làng Tân An, Tổng Bình Long, Quận Long Châu (Châu Thành), Tỉnh Vĩnh Long (nay là Khóm 1, Phường 9, Thành phố Vĩnh Long, Tỉnh Vĩnh Long).

Cha ông là Phùng Văn Thân (1877-1947), mẹ là Nguyễn Thị Lới (1880-1967). Ông xuất thân trong một gia đình trung lưu, sống bằng nghề ruộng, vườn và buôn bán gạo giã. Tuy không phải là gia đình giàu có, nhưng với truyền thống đạo đức, nhân bản, cần cù, hiếu học, nên các anh, chị, em ông đều được cha mẹ cho đến trường ngay từ nhỏ. Thời niên thiếu, ông nổi tiếng là người học giỏi trong làng. Những năm theo bậc sơ học, ông học tại Trường làng Tân Bình (mở tại nhà Hội Tân Bình, nay là Trường Lý Tự Trọng, Phường 9), lên bậc Tiểu học ông học tại Trường Đình Tân Giai (nay thuộc Khóm 1, Phường 3). Qua bậc tiểu học, ông thi đậu bậc Trung học hạng ưu (đậu buộc) và được gia đình cho sang học tại Trường Collège Mỹ Tho (nay là Trường Trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu) và sau đó lên học bậc tú tài tại Trường Petrus Ký Sài Gòn (nay là Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Thành phố Hồ Chí Minh). Sau khi tốt nghiệp Tú tài, ông thi vào trường y tại Hà Nội, một ngành nghề đòi hỏi đầy lương tâm và trách nhiệm. Nhờ tài học giỏi, nên ông được cấp học bổng từ trung học đến đại học [1].

Năm 1936, khi đang học đại học ông cưới vợ là bà Lê Thoại Chi (1913-1966), quê Sa Đéc, Đồng Tháp, cũng là một trí thức yêu nước. Năm 1937, ông tốt nghiệp đại học và được đưa sang Phnôm Pênh làm việc. Hồi đó, những người không chịu hợp tác với Pháp thường được bổ nhiệm sang Campuchia.

Khi Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), ông về quê vợ ở làng Hội An, chợ Cái Tàu Thượng (Sa Đéc) mở phòng khám bệnh, trực tiếp giúp dân nghèo và tham gia cách mạng. Tháng 8/1945, ông tham gia cướp chính quyền ở Sa Đéc. Khi Pháp tái chiếm Sài Gòn, ông đã gấp rút mở các lớp đào tạo y tá, cứu thương, bà lo chuẩn bị y cụ, hậu cần sẵn sàng phục vụ cuộc kháng chiến sắp tới. Ông chưa có dịp ra bưng biền kháng chiến, nhưng với lòng yêu nước và trách nhiệm người thầy thuốc, ông hết lòng tận tuỵ chăm sóc bệnh nhân, che chở cho cán bộ cách mạng, chữa bệnh cho người nghèo không lấy tiền.

Nhờ tài năng và đức độ, ông ngày càng nổi tiếng và được sự cảm mến của đồng bào.

Năm 1954, theo hiệp định Giơ-ne-vơ, Việt Nam tạm chia hai miền, quân đội các bên sẽ chuyển quân, tập kết. Khi đó, ông đồng ý cho hai con trai là Phùng Ngọc Thạch và Phùng Ngọc Ẩn tập kết ra Bắc học tập. Về sau, cả hai đều trở thành những bác sĩ giỏi. Đến năm 1960, theo yêu cầu đào tạo con em miền Nam, bác sĩ Phùng Văn Cung tiếp tục gửi hai con gái là Phùng Ngọc Sương và Phùng Ngọc Lan bí mật qua đường Campuchia ra Bắc học tập.

Năm 1957, chính quyền Sài Gòn mời ông ra làm giám đốc Sở Y tế tỉnh Châu Đốc rồi Rạch Giá. Trong thời gian này, ông vẫn thường bí mật ra bưng biền giúp các bác sĩ kháng chiến điều trị cho thương binh. Có lúc bị địch phát hiện, chúng gọi ông đến truy hỏi, ông trả lời: “Tôi bị Việt Minh bắt vào bưng chữa trị cho thương binh rồi thả về. Các ông không bảo vệ được tôi tại sao còn tra hỏi...”

Để ràng buộc ông, đồng thời tạo nghi ngờ từ phía kháng chiến, địch phong quân hàm Thiếu tá quân y và đưa ông ra làm Giám đốc Bệnh viện quân đội. Ông đấu tranh quyết liệt, chúng phải để ông trở lại làm Giám đốc Bệnh viện dân y ở thị xã Rạch Giá.

Cuối năm 1958, ông lên Sài Gòn làm giám đốc Bệnh viện Phúc Kiến (nay là Bệnh viện Nguyễn Trãi). Tại đây, ông và vợ thường quyên góp tiền bạc, thuốc men, tổ chức chuyển ra chiến khu. Kẻ địch theo dõi và phát giác, chúng bắt ông giam vào phòng P42 sở mật thám để tra hỏi. Chúng hỏi: Tại sao ông cho hai con đi học Hà Nội. Ông bình thản trả lời:

- “Sài Gòn cũng có các cháu đi học ở Nhật, Mỹ, Pháp... ở đâu phù hợp với trình độ với năng lực của chúng thì tôi cho học. Tôi chọn nơi cho các cháu học không phải cho các cháu theo chế độ cộng sản”. Chúng buộc ông “không được dính líu đến Việt cộng, nếu không sẽ bị đẩy xuống hầm a-xít”. Tuy bị hăm dọa, nhưng bác sĩ Phùng Văn Cung vẫn một mực nói mình chỉ là một người thầy thuốc có bổn phẩn chữa bệnh cứu người chứ không biết ai là Việt cộng. Kẻ địch buộc phải thả ông, nhưng luôn bám sát, theo dõi, tìm cách hãm hại.

Tháng 9 năm 1959, theo yêu cầu của cách mạng, các đồng chí lãnh đạo Xứ ủy Nam Bộ[2]cho người vào Sài Gòn mời ông bà ra chiến khu. Ông bà đã bỏ hết sự nghiệp, cả nhà bí mật vào chiến khu Miền Đông Nam Bộ để chuẩn bị thành lập Mặt trận dân tôc giải phóng Miền Nam Việt Nam (ngày 20-12-1960) và ông được bầu là Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam.

 Là một trí thức yêu nước, ông được vợ đồng tình, sẵn sàng chấp nhận ra đi với hai bàn tay trắng, để lại cơ ngơi đồ sộ mà ông bà đã nhiều năm tạo dựng bằng tài năng và trí tuệ của mình mới có được để tham gia kháng chiến, chấp nhận cuộc sống chiến đấu gian khổ ác liệt cùng các lực lượng yêu nước đánh đuổi ngoại xâm đem lại độc lập cho dân tộc. Khi đến căn cứ, mặc dù cuộc sống, sinh hoạt thiếu thốn, gian khổ, bom đạn ác liệt, song vợ chồng bác sĩ Phùng Văn Cung chấp nhận mọi hoàn cảnh như bao cán bộ, chiến sĩ cách mạng khác. Với bộ bà ba đen giản dị, bàn ghế làm việc đơn sơ, giường vạt chõng tre, mái lá, cơm vắt muối vừng, hai ông bà sống chan hòa với anh em cơ quan. “Bác Sáu”[3], cái tên gọi thân mật mà cán bộ, chiến sĩ và đồng bào trong chiến khu dành cho bác sĩ Phùng Văn Cung thật thân tình và quý mến. Hình ảnh người lãnh đạo giản dị, nghiêm túc với tinh thần làm việc cần mẫn là mẫu mực về chịu đựng gian khổ, là tấm gương về nếp sống, cách cư xử với anh em...

Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu thân, dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Mặt trận Dân tộc giải phóng, nhân dân ở các đô thị đã nêu cao lòng yêu nước, tập hợp lực lượng liên kết với mặt trận để đánh bại kẻ thù. Lúc này, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình miền Nam Việt Nam ra đời, đứng đầu là luật sư Trịnh Đình Thảo đã liên hiệp với Mặt trận Dân tộc giải phóng, thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam vào tháng 6/1969. Bác sĩ Phùng Văn Cung được tín nhiệm cử làm Phó Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

Để trực tiếp báo cáo với Bác Hồ về sự trưởng thành của cách mạng Miền Nam, đồng thời chuyển lời thăm của Mặt trận, Liên minh tới Bác, một đoàn đại biểu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam do bác sĩ Phùng Văn Cung dẫn đầu ra thăm Bác Hồ và miền Bắc. Bác sĩ Phùng Văn Cung và đoàn đại biểu được Bác Hồ tiếp thân mật, ân cần. Thay mặt nhân dân miền Nam, Bác sĩ Phùng Văn Cung chúc Bác, mong Bác mạnh khỏe và sống lâu để có thể vào thăm miền Nam. Đáng tiếc chỉ vài tháng sau, Bác Hồ đã vĩnh viễn đi xa.

Trở lại miền Nam, bác sĩ Phùng Văn Cung tiếp tục cùng các vị lãnh đạo Mặt trận, Chính phủ chỉ đạo cuộc chiến đấu kiên cường, liên tục giải phóng các vùng rộng lớn - trong đó vùng Lộc Ninh  thuộc Chiến Khu D, nơi trở thành thủ phủ của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Tại đây, Chính phủ đã có nhiều cuộc đón tiếp ngoại giao và bạn bè quốc tế, đón tiếp các giới đồng bào và nhân sĩ yêu nước từ Sài Gòn và mọi miền Tổ quốc đến thăm và ủng hộ lực lượng kháng chiến. Bác sĩ Phùng Văn Cung được giữ những chức vụ: Chủ tịch Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của miền Nam Việt Nam, Ủy viên Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, nhiều lần đi công cán các nước trên thế giới, đem tiếng nói chính nghĩa của nhân dân miền Nam tố cáo tội ác đế quốc Mỹ trước dư luận rộng rãi trên thế giới

Sau ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, tháng 2/1977, tại Đại hội thống nhất Mặt trận toàn quốc, bác sĩ Phùng Văn Cung được cử làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Do tuổi tác đã cao, ông bị bệnh và trở về sống trong ngôi nhà đơn sơ của người con trai và đã qua đời ngày 7/11/1987.

Hiện nay, tại Thành phố Hồ Chí Minh có một con đường mang tên Phùng Văn Cung tại quận Phú Nhuận.

Trong một bài báo có nhan đề Bác sĩ Phùng Văn Cung - một trí thức lớn hết lòng vì nhân dânđăng trên Báo Xuân Vĩnh Long (Năm Quý Tỵ),tác giả Đinh Phong viết:

“Nhắc đến bác sĩ Phùng Văn Cung phải nói đến sự yêu thương, chăm sóc của vợ ông là Lê Thoại Chi. Bà không chỉ là một nhà yêu nước mà còn là chỗ dựa vững chắc cho ông hoạt động cách mạng, tạo điều kiện cho cả bốn người con đều ra Bắc học trở thành các bác sĩ giỏi của ngành.

Gia đình bà Chi rất khá giả. Bà có một cuộc sống rất sung túc nhưng lại yêu thương, giúp đỡ người nghèo ngay từ hồi còn nhỏ. Bà lập gia đình với ông Phùng Văn Cung- lúc đó là sinh viên học ở Hà Nội. Bà sắp xếp ra Bắc nuôi chồng để ông đậu bằng bác sĩ. Khi ông tốt nghiệp hai ông bà làm việc ở Phnôm Pênh rồi trở về Châu Đốc.

Cũng như ông, bà gắn bó với cuộc chiến đấu của nhân dân ta đánh thực dân Pháp. Bà cùng ông nuôi dưỡng cán bộ cách mạng, chữa trị thương tích cho bộ đội, giúp đỡ người nghèo. Có lần bà đã mạnh dạn cho ông nhận một nữ cán bộ cách mạng là người yêu để đề nghị chính quyền địch thả khỏi trại giam.

Khi lên rừng tham gia cách mạng cùng ông, là phụ nữ quán xuyến gia đình bà đã chấp nhận bỏ lại sau nhà cửa, tiền bạc. Bà mạnh dạn dắt hai con gái còn nhỏ cùng vào rừng tham gia kháng chiến. Tháng 3/1965 bà được bầu vào Ban thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam. Để tạo điều kiện cho hai ông bà yên tâm tham gia kháng chiến, năm 1960 được gửi hai con gái là Phùng Ngọc Sương và Phùng Ngọc Lan ra Bắc học tập. Bà đã hy sinh trong một chuyến công tác tại tại chiến khu.

Sau này khi bác sĩ Phùng Văn Cung nhận Huân chương Độc lập hạng nhất, ông xúc động nói:

- Đáng lẽ tấm huân chương này dành cho vợ tôi...

Bác sĩ Phùng Văn Cung - người mà nhân dân và chiến sĩ miền Nam gọi với tên thân mật là ông Sáu Cung - đã cống hiến trọn đời cho dân cho nước. Bà Lê Thoại Chi- vợ ông cũng nêu một tấm gương “trung hậu, đảm đang” hết lòng vì dân vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Hai ông bà đã từ bỏ cơ ngơi lớn lao tại Sài Gòn để đi vào cách mạng với hai bàn tay trắng. Ông bà đã nêu một tấm gương cao quý cho bao trí thức ngày đó, bỏ lại giàu sang phú quý để đi vào cuộc kháng chiến đầy gian khổ, ác liệt vì nước, vì dân.

Bác sĩ Phùng Văn Cung là một trí thức lớn, với lòng yêu nước cao cả đã sát cánh cùng Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ giương cao ngọn cờ mặt trận vẻ vang, tập hợp mọi lực lượng yêu nước góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc”.

Kết thúc bài viết này, để bày tỏ lòng cảm phục đối với Bác sĩ Phùng Văn Cung - Trí thức cách mạng, người con tiêu biểu của Vĩnh Long, chúng tôi xin nghiêng mình và mượn lời thơ mà tác giả Lê Anh Xuân đã viết về người chiến sĩ Giải phóng quân trong bài “Dáng đứng Việt Nam” đó là:

“Anh chẳng để gì lại cho riêng Anh trước lúc lên đường

Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ”

Ông, Anh, Người bạn, Người đồng chí, Người Thầy, Người Bác sĩ Phùng Văn Cung.

 

Tài liệu tham khảo:

1.     Ghi chép theo lời kể của người thân Bác sĩ Phung Văn Cung:

*    Bác sĩ Lê Kim Hà - Anh hùng lực lượng vũ trang (vợ Bác sĩ Phùng Ngọc Ẩn) ĐT. 0989.002.199, và Anh Phùng Ngọc Minh, Giám đốc Tài chính Quân cảng (Phú Nhuận - TPHCM) ĐT: 0913.920.970, Cháu nội duy nhất của Bác sĩ Phung Văn Cung. Địa chỉ nhà riêng: 671/4 Nguyễn Kiệm, Phường 9, Quận Phú Nhuận).

*    Anh Phùng Minh Hải (ĐT 0939.791.416), Chị Phùng Thị Thu, Phùng Thị Ngọc Hà (con ông Phùng Văn Giỏi, em thứ 9 Bác sĩ Phùng Văn Cung). Địa chỉ: 113, Khóm 1, Phường 9, Thành phố Vĩnh Long

2.     Bác sĩ Phùng Văn Cung - Một trí thức đức độ, tài năng và uy tín,Tác giả Nguyễn Túc Uỷ viên Đoàn Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam

http://hophungvietnam.com.vn/index.php?language=vi&nv=news&op=Chuyen-de-nhan-vat/Bac-si-Phung-Van-Cung-385

3.     Bác sĩ Phùng Văn Cung- một trí thức lớn hết lòng vì nhân dân,Tác giả: Đinh Phong, đăng trên Báo Xuân Vĩnh Long (Năm Quý Tỵ).

4.     Phùng Văn Cung, Bách khoa toàn thư,

http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B9ng_V%C4%83n_Cung



[1]Theo lời kể của những người thân gia đình, hiện đang sống tại Khóm 1, Phường 9 .

[2]Từ Đại hội II (1951), Trung ương Cục miền Nam thành lập, thay cho Xứ ủy Nam Bộcó từ năm 1946. Đến tháng 9 năm 1954, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định giải thể Trung ương Cục miền Nam và lập lại Xứ ủy Nam Bộ. Ngày 23 tháng 1năm1961, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam thay cho Xứ ủy Nam Bộ. Tháng 10-1961, Trung ương Cục miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước chính thức được thành lập.

[3]Bác sĩ Phùng Văn Cung là người con thứ năm trong gia đình. 

Tác giả bài viết: Trương Quang Phú*

Trường thuốc Sài Gòn ngày tháng cũ

  Thanh Niên

Đi ngang góc đường Võ Văn Tần – Lê Quý Đôn (TP.HCM) ai cũng biết số nhà 28 Võ Văn Tần là Bảo tàng Chứng tích chiến tranh, nhưng ít người rõ nơi này ngày xưa là chùa Khải Tường, được lập theo lệnh vua Minh Mạng để ghi dấu tích nơi ngài chào đời và sau đó là Trường thuốc Sài Gòn.

Trường Y khoa Đại học đường tại số 28 đường Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần   ẢNH: T.L

Nơi tập hợp những giáo sư cự phách

Người Pháp đã chiếm ngôi chùa để lập đồn lính. Đến tháng 12.1860 viên đại úy Barbet, chỉ huy trú đóng, bị nghĩa quân phục kích giết chết. Khoảng năm 1947 thì số nhà 28 này tấp nập sinh viên (SV) trường thuốc. Trường thuốc ngày xưa mang tên Y Dược hỗn hợp Đại học đường (Faculté mixte de Médecine et de Pharmacie) được thành lập sau Hiệp định Genève. Trước năm 1947, đây là chi nhánh của Trường Y khoa Đông Dương thuộc Viện Đại học Đông Dương đặt ở Hà Nội.

Trường thuốc y dược hỗn hợp này ít được biết đến vì chẳng có ngôi trường to đùng như bây giờ. Trường thuốc ngày ấy được đặt trong một tòa nhà cũ kỹ, trước kia là nhà của một bà bác sĩ, lùi mình vào giữa một sân rộng với rào cây xanh tươi, mang số 28 ở góc đường Testard – Barbet một vùng yên tĩnh, ít ai qua lại. Vì trường đặt trong một ngôi biệt thự, chẳng cải tạo lại nên giảng đường là những phòng nhỏ bé, chật hẹp.

Bài phóng sự Trường thuốc Sài Gòn của báo Đời Mới (năm 1959) cho biết: “Chỉ có ba gian ở tầng lầu trên dùng cho cả hai trường y dược nên nhiều khi không đủ, SV phải đi học nhờ ở những nơi khác như Viện Pasteur, ở phòng thí nghiệm vật lý học đường hay ở ngay nhà xác Chợ Rẫy khi học giải phẫu. Tại trường, lớp học chỉ vừa đủ để chứa một ít SV nên mỗi năm vô thêm người là cả vấn đề. Lúc sơ khai, nhà trường đóng những bàn nhỏ vừa cho hai người ngồi. Gặp phải “nạn nhân mãn”, ông viện trưởng nghĩ ra một diệu kế là cưa ngay mặt bàn làm hai theo chiều dài để tăng số bàn gấp đôi…”. Các “ông thầy” Nguyễn Chấn Hùng, Đỗ Hồng Ngọc, Trần Đông A, Ngô Thế Vinh, Trương Thìn…. thuở SV chắc đã từng ngồi trên những cái bàn này?

Dù nhỏ và chật hẹp như vậy nhưng vào đầu năm 1960, Trường Y Dược hỗn hợp có một dàn giáo sư (GS) cự phách. Được biết đến là GS Khoa trưởng Phạm Biểu Tâm, Phụ tá khoa trưởng là GS Ngô Gia Hy và 83 GS – bác sĩ (BS) Việt lẫn nước ngoài như GS Trần Quang Đệ, GS Nguyễn Đình Cát, GS Trần Ngọc Ninh, GS Nguyễn Ngọc Huy, BS giảng sư Trần Lữ Y, Bùi Duy Tâm, Nguyễn Phước Đại… Khoảng đầu thập niên 1960, Trường Y Dược hỗn hợp tách ra và đổi tên thành Y khoa Đại học đường.

Thời nào cũng vậy, mộng ước của cha mẹ của các cô gái là kiếm được chàng rể “BS, kỹ sư” cho nở mày nở mặt với thiên hạ. Tôi thì không dám mơ trở thành BS vì chỉ ham chuyện văn chương còn những thằng bạn tôi, khi còn học trung học đã mơ đời BS nên từ khi lên lớp đệ tam (lớp 10) đã chọn ban A để dễ dàng thi lấy chứng chỉ SPCN (Sciences Physiques, Chimiques et Naturelles) hoặc chứng chỉ sinh lý – sinh hóa. Khi có chứng chỉ này được xem như vào lớp dự bị y khoa. SV phải vượt qua kỳ thi tuyển vì sĩ số có hạn. Niên khóa 1971 – 1972, 952 thí sinh dự thi nhưng chỉ có 203 người vượt vũ môn (trong đó 65 nữ SV). Sau 6 năm học tập và thực tập tại các bệnh viện (chưa kể năm dự bị), SV được xem là y sĩ và có thể hành nghề tại các bệnh viện. Nhưng nếu muốn có được bằng BS y khoa, y sĩ phải trình một luận án trước một hội đồng gồm 5 thành viên. Bằng BS y khoa do trường y khoa cấp được xem là tương đương với văn bằng y khoa nước ngoài.

GS Phạm Biểu Tâm nói chuyện với SV tại tòa nhà số 28 đường Testard, sau đổi lại là Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần) ẢNH: LIFE

Ngôi trường mới của thầy thuốc

Ngày 9.5.1963 là ngày đặt viên đá đầu tiên xây dựng trung tâm giáo dục y khoa (TTGDYK) tại đường Hồng Bàng (Chợ Lớn), nay là Đại học Y Dược TP.HCM, với thiết kế của công ty kiến trúc Mỹ Smith, Hinchman&Grylls và đoàn kiến trúc sư VN do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ hướng dẫn. Bắt đầu từ năm 1961, hai bên đã cộng tác để thiết lập đồ án kiến trúc nói trên. Khoảng tháng 6.1962, hai bên đã hoàn thành đồ án xây cất TTGDYK với đầy đủ các chi tiết. Trường có nhiều phòng thí nghiệm, những giảng đường với 200 chỗ ngồi, một đại thính đường với 450 chỗ ngồi, một thư viện 200 chỗ ngồi, một quán cà phê và một bệnh viện y khoa. Với cơ sở lớn như vậy, hằng năm chỉ có độ 200 BS y khoa và 50 nha sĩ tốt nghiệp.

Sau ba năm xây dựng, ngày 16.11.1966, chính quyền Sài Gòn đã làm lễ khánh thành TTGDYK với kinh phí xây dựng là 150 triệu đồng. GS Phạm Biểu Tâm đã đọc một bài diễn văn khai mạc trong đó có đoạn đáng chú ý: “Trung tâm này sẽ xứng danh là một TTGDYK vào bậc nhất nhì vùng Đông Nam Á”.

Sau này, trường được gọi là Y khoa Đại học đường Sài Gòn trực thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Trong gần 10 năm cộng tác giữa hai phía, trường đã hợp tác chặt chẽ với 20 bộ môn của 19 trường y tại Mỹ. Ngoài việc 140 giảng viên VN được huấn luyện tại Mỹ từ 6 tháng đến 6 năm, phía Mỹ đã gửi đến VN lượng sách, báo đồ sộ cho thư viện và một lực lượng ban giảng huấn hùng hậu với 171 giảng viên, trong đó 22 chủ nhiệm bộ môn, 37 giảng viên hợp tác dài hạn, 112 hợp tác ngắn hạn, với những tên tuổi lớn của y khoa Mỹ lúc bấy giờ. Từ ngôi trường y khoa này, xuất hiện một loạt BS tài ba, những GS – tiến sĩ y khoa đầu ngành nổi tiếng tại VN hiện tại. Nhiều thế hệ BS kế tục, đã và đang được đào tạo bởi các GS-BS thi đậu vào TTGDYK năm đầu tiên.

Năm 1976, các trường Y khoa Đại học đường Sài Gòn, Dược khoa Đại học đường Sài Gòn, Nha khoa Đại học đường Sài Gòn và Trường Đào tạo cán bộ y tế miền Nam hợp nhất thành Trường đại học Y Dược TP.HCM trực thuộc sự quản lý của Bộ Y tế.

 

Từ năm 1947 đến nay, 70 năm qua, Trường đại học Y Dược TP.HCM ngày càng phát triển, cũng nên nhớ lại địa chỉ 28 Võ Văn Tần – nơi xưa kia đã có một trường đào tạo những sinh viên trường thuốc “sẽ săn sóc miễn phí cho người nghèo và không bao giờ đòi hỏi một thù lao quá đáng so với công việc làm” (trích lời thề Hippocrates do BS Nguyễn Đình Cát dịch).

Lê Văn Nghĩa

(báo Thanh Niên)

…………………………………………………………………………………………

Trường Đại học Y khoa Sài Gòn

Trường Đại học Y khoa Sài Gòn là trường đại học đào tạo bác sĩ y khoa của Việt Nam Cộng hòa. Đây là một phân khoa đại học của Viện Đại học Sài Gòn.

Trường Đại học Y khoa đầu tiên ở Việt Nam là Trường Y khoa Đông Dương thuộc Viện Đại học Đông Dương (tiếng Pháp: Université de l’Indochine) đặt ở Hà Nội. Năm 1946 mở thêm một trường phụ thuộc ở Sài Gòn với tên Faculté de Médecine et de Pharmacie de Hanoi, Section de Saigon. Sau Hiệp định Genève năm 1954, cơ sở và nhân sự được dời từ ngoài Bắc vào Sài Gòn dưới tên mới: Faculté de Médecine et de Pharmacie, Université de Saigon. Đó là khởi điểm của trường Y khoa riêng của Sài Gòn. Khoảng 2/3 sinh viên y khoa Hà Nội cùng các giáo sư cũng di cư vào Nam tăng sĩ số và giảng viên.

Trụ sở của trường là số 28 đường Testard gần góc với đường Barbé (sau năm 1955 đổi là Trần Quý Cáp và Lê Quý Đôn). Đó nguyên là đất cũ của ngôi chùa Khải Tường lịch sử. Sang thời Pháp thuộc chùa bị phá. Lấp lên trên nền chùa cũ là biệt thự tư gia. Năm 1940 nữ bác sĩ Henriette Bùi, mở dưỡng đường sản phụ khoa ở đó. Bà là nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam, cũng là con gái của nghị viên Bùi Quang Chiêu, một nhân vật chính trị quen thuộc ở Nam Kỳ. Bà đã hiến biệt thự cho chính phủ để trường có nơi hoạt động.

Năm 1955 Bệnh viện Bình Dân được lập để làm nơi thực nghiệm giải phẫu, bổ túc thêm cho Bệnh viện Chợ Rẫy. Năm 1956 thì mở Bệnh viện Nhi đồng trên đường Sư Vạn Hạnh; đó là cơ sở y tế đầu tiên tại Việt Nam dành riêng cho nhi khoa.[4] Cùng năm đó Trường mở riêng Cơ thể học Viện ở đường Trần Hoàng Quân, cạnh Bệnh viện Hồng Bàng.

Tháng Tám năm 1961, Trường tách Y khoa và Dược khoa làm hai. Năm 1963 thì tách Nha khoa ra khỏi. Cũng vào những năm này các giáo sư người Pháp lần lượt giải nhiệm và ban giảng huấn chuyển qua tay người Việt. Năm 1962 là năm cuối cùng bằng Bác sĩ Y khoa của Viện Đại học Sài Gòn được công nhận tại Pháp.

Trường Đại học Y khoa giữ nguyên địa chỉ ở số 28 đường Trần Quý Cáp đến Tháng Sáu năm 1966 thì dọn đến địa điểm mới là Trung tâm Giáo dục Y khoa vừa hoàn tất trên Đại lộ Hồng Bàng. Kinh phí 4 triệu rưởi Mỹ kim một nửa do cơ quan USAID của Hoa Kỳ tài trợ với sự trợ lực của Hội Y khoa Hoa Kỳ (American Medical Association, AMA), 50% góp từ ngân sách quốc gia Việt Nam Cộng hòa. Cơ sở mới được một nhóm kiến trúc sư Mỹ Việt thiết kế, trong đó Công ty CRS (Houston) là trưởng nhóm Hoa Kỳ, và Văn phòng tư vấn kiến trúc của KTS Ngô Viết Thụ là trưởng nhóm Việt Nam. Sau khi xây dựng xong, nhóm kiến trúc sư Mỹ Việt đang tiến hành thiết kế bệnh viện Y khoa thực hành cho trường Y tại một khu đất lân cận (có sân bay trực thăng) nhưng phải ngưng khi chính thể Việt Nam Nam Cộng hòa sụp đổ.

Ở Gia Định thì đặt Trung tâm Thực tập Y khoa trong Bệnh viện Nguyễn Văn Học dưới sự điều hành của Tổng quản đốc làm nơi sinh viên y khoa đem áp dụng kiến thức điều trị.

Ngoài 1 năm đầu dự bị khoa học tổng quát, học trình y khoa chính quy là sáu năm theo khuôn mẫu y khoa Pháp. Hai năm đầu học các môn cơ thể học, mô học, sinh hóa học, sinh lý, và triệu chứng học. Năm thứ ba và tư học các môn cơ thể bệnh lý, nội khoa và ngoại khoa. Cũng hai năm này sinh viên bắt đầu đi thực tập ở các bệnh viện.

Năm thứ năm và sáu chuyển sang các môn bệnh lý chuyên môn: nhi khoa, sản phụ khoa, tâm thần… và tăng thời gian thực tập ở các bệnh viện.

Năm thứ sáu cũng là năm hoàn tất luận án.

Một buổi trình luận án 1960

Sau buổi trình luận án của 2 Bs tân khoa: Nguyễn Khắc Minh, Đào Hữu Anh tại Đại học Y Khoa Sài Gòn (1960); với Hội đồng Giám khảo, hàng trước từ trái: Giáo sư Nguyễn Hữu, Giáo sư Phạm Biểu Tâm, Giáo sư Trần Đình Đệ, Giáo sư Trịnh Văn Tuất. (Bs Nguyễn Khắc Minh, Bs Đào Hữu Anh, cả hai đều trở thành giáo sư của trường Y Khoa sau này).

Đọc Lời thề Hippocrate

Serment d’Hippocrate:

 “ En présence des Maîtres de cette école, de mes chers Condisciples et devant l’Effigie d’Hippocrate, je promets et je jure, au nom de l’Être Suprême, d’être fidèle aux lois de l’honneur et de la probité dans l’exercice de la Médecine. Je donnerai mes soins à l’indigent et n’exigerai jamais un salaire au-dessus de mon travail. Admis dans l’intérieur des maisons, mes yeux n’y verront pas ce qui s’y passe, ma langue taira les secrets qui me seront confiés, et mon état ne servira pas à corrompre les mœurs ni à favoriser le crime. Respectueux et reconnaissant envers mes Maîtres, je rendrai à leurs enfants l’instruction que j’ai reçue de leurs pères.

Que les homes m’accordent leur estime si je suis fidèle à mes promesses!

Que je sois couvert d’oppobre et méprisé de mes confrères si j’y manque!

……………………………………………………………………………………….

(theo Tài liệu Dr HKCUONG)

Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2024

Những hình ảnh và tư liệu quý hiếm của Trường Đại học Y Khoa Sài Gòn (cơ sở Trung tâm Giáo dục Y Khoa) trước 1975

 Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, thường gọi là Y khoa Đại học đường Sài Gòn, có tiền thân là một trường Y Khoa được hành lập từ năm 1947, vốn là một phân hiệu của trường Y khoa Hà Nội (École de Médecine de Hanoi). Đây chính là trường Y Khoa đầu tiên của Đông Dương, được bác sĩ Yersin thành lập và làm hiệu trưởng đầu tiên từ năm 1902 ở Hà Nội, sau đó trở thành một phần của Viện Đại học Đông Dương. Năm 1947, sau khi tái kiểm soát Đông Dương, thực dân Pháp đã thành lập phân viện trường Y Khoa ở Sài Gòn (Faculté mixte de Médecine et de Pharmacie de Hanoi, Section de Saigon), với vị hiệu trưởng đầu tiên là giáo sư C.Massias, trụ sở đặt tại căn villa số 28  đường Testard (Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần). Ở cuối bài viết này, chúng tôi sẽ nói chi tiết hơn về căn villa này.

Năm 1955, sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương, trường Y Khoa này được chuyển giao về cho chính quyền Quốc Gia Việt Nam, đổi tên trường thành Y Dược Đại học đường, nhưng hầu hết các giáo sư giảng dạy vẫn là những người Pháp, bằng cấp của trường được công nhận tại Pháp. Ngày 31 tháng 8 năm 1961, Y Dược Đại học đường Sài Gòn cũ được tách làm 2: Y khoa Đại học đường Sài Gòn và Dược khoa Đại học đường Sài Gòn. Ngày 5/1/1962, Dược Khoa Đại học đường chính thức khánh thành trụ sở mới, số 169 Công Lý, vốn là biệt thự cũ của bà chủ đồn điền cao su Souchère thời Pháp (hình bên dưới), nay là Nhà Văn hóa Thiếu nhi thành phố. Tới năm 1968, trường Dược, lúc này mang tên là Trường Đại học Dược Khoa Sài Gòn) lại chuyển qua trụ sở mới bên thành Cộng Hòa cũ, sát bện cạnh trường Văn Khoa bên đường Đinh Tiên Hoàng – Cường Để

 Quay trở lại với Y Khoa Đại học Đường, vào ngày 12 tháng 8 năm 1962, Ban Nha khoa thuộc Y khoa Đại học đường Sài Gòn lại tách ra thành trường riêng, tên gọi Nha khoa Đại học đường Sài Gòn. Năm 1963, Nha Khoa Đại học đường chuyển về trụ sở ở Chợ Lớn, số 652 Nguyễn Trãi (nay là Bệnh viện Răng Hàm Mặt). Như vậy từ một trường ban đầu, Y Được Đại học đường đã tách thành 3 trường, hoạt động độc lập và cùng trực thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Đó là: Y khoa Đại học đường Sài Gòn – Dược khoa Đại học đường Sài Gòn – Nha khoa Đại học đường Sài Gòn. Cũng từ lúc này, các giáo sư người Pháp lần lượt giải nhiệm và ban giảng huấn chuyển qua tay người Việt. Năm 1962 là năm cuối cùng bằng Bác sĩ Y khoa của Viện Đại học Sài Gòn được công nhận tại Pháp. Năm 1961, để làm trụ sở mới cho 2 trường Y Khoa và Nha Khoa, tổng thống Ngô Đình Diệm đã quyết định cho nghiên cứu một đề án xây dựng cơ sở mới bên Chợ Lớn, được gọi là Trung tâm giáo dục Y Khoa thuộc Viện Đại học Sài Gòn, nằm trên nền cũ của Dinh Đốc Lý thành phố Chợ Lớn, giữa 4 con đường Nguyễn Trãi, Hồng Bằng, Phù Đổng Thiên Vương và Tản Đà. 

Dinh Đốc Lý Chợ Lớn, vị trí sau này là nơi xây dựng Trung tâm Giáo dục Y Khoa – trường Đại học Y Khoa Sài Gòn Dinh Đốc Lý Chợ Lớn cũng từng được gọi là Dinh Xã Tây (khác với Dinh Xã Tây Sài Gòn), nên ngay bên cạnh khu này vẫn còn một ngôi chợ mang tên là chợ Xã Tây.

 3 khối nhà màu trắng là Trung tâm giáo dục Y Khoa, nằm bên cạnh Nhà thờ Thánh nữ Jeanne d’Arc Người phụ trách thiết kế và xây dựng Trung tâm Giáo dục Y Khoa này chính là kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, hợp tác với công ty xây dựng Hoa Kỳ. 

Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Trung tâm Giáo dục Y khoa diễn ra vào ngày 9/5/1963, với sự có mặt của tất cả những nhà lãnh đạo cao nhất: Tổng thống Ngô Đình Diệm, phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, Chủ tịch quốc hội Trương Vĩnh Lệ, Chủ tịch Viện Bảo Hiến Đinh Văn Huân, Tổng tham mưu trưởng quân đội là Đại tướng Lê Văn Tỵ, Bộ trưởng Quốc gia Giáo Dục Nguyễn Quang Trình, Khoa trưởng Y Khoa Đại học dường Phạm Biểu Tâm, Đại sứ Hoa Kỳ là Fredericj E. Nolting. 

Bản vẽ Trung tâm giáo dục y Khoa của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ Sau những bài phát biểu của tổng thống, bộ trưởng, khoa trưởng và Đại sứ Hoa Kỳ, các quan khách có mặt đã đi thăm phòng triển lãm những họa đồ và mô hình của Trung tâm Giáo dục Y khoa.

 KTS Ngô Viết Thụ (bên phải) đang trình bày với tổng thống Ngô Đình Diệm về đồ án xây dựng trung tâm giáo dục y khoa, 

Tờ Văn Hóa Nguyệt San của Bộ Quốc gia Giáo Dục xuất bản tháng 5/1963 đưa tin: Vài chi-tiết về dự-án xây cất Trung-tâm Giáo-dục Y-khoa. Trung-tâm Giáo-dục Y-khoa mà Tổng-Thống vừa đặt viên đá đầu tiên đề xây cất là kết-quả cuộc hợp tác thân hữu giữa hai chính phủ Hoa Kỳ và Việt-Nam. Trung-tâm này sẽ được xây cất trong hai giai đoạn: trước hết là một trường Y-khoa mới để giảng dạy các khoa-học căn-bản, và sau là một bệnh viện thực-hành. Đồ-án xây cất cũng là kết-quả tốt đẹp của một sự hợp-tác chặt-chẽ giữa các kiến-trúc-sư Mỹ và Việt Nam: một bên là hãng kiến-trúc-sư Mỹ Smith, Hinchman và Grills và một bên là đoàn kiến-trúc-sư Việt-Nam do ông Ngô-Viết-Thụ, khôi-nguyên giải La-Mã, hướng-dẫn. Bắt đầu từ năm 1961, hai bên đã cộng tác đề thiết-lập đồ-án nói trên. Khoảng tháng 6 năm 1962, các kiến-trúc-sư Việt và Mỹ đã hoàn-thành đồ án xây cất trường Y-khoa giảng dạy khoa-học căn-bản với đầy-đủ chi-tiết. Toàn bộ trường y-khoa này gồm có những phòng thí-nghiệm về mọi khoa-học căn-bản, những giảng-đường với 200 chỗ ngồi, một đại thính-đường với 450 chỗ ngồi, một thư-viện 300 chỗ ngồi, một quán cà-phê và một bệnh-viện Nha-khoa. Trung-tâm Giáo-dục Y-khoa dự-định thâu nhận 1,500 sinh-viên Y-khoa và Nha-khoa, như vậy mỗi năm sẽ có độ 200 bác-sĩ y-khoa và 50 nha-sĩ tốt-nghiệp. Địa-điểm của Trung-tâm do Bộ Quốc-Gia Giáo-Dục lựa chọn là ở Chợ lớn, gần hai bệnh-viện lớn là Hồng-Bàng và Hùng-Vương. Trung tâm Giáo dục Y Khoa được hoàn thành 1966 với tổng kinh phí xây dựng là 4.5 triệu USD, trong đó một nửa do cơ quan USAID của Hoa Kỳ tài trợ với sự trợ lực của Hội Y khoa Hoa Kỳ (American Medical Association, AMA). Một nửa kinh phú còn lại được góp từ ngân sách quốc gia. 

Ngày 16 tháng 11 năm 1966, Y khoa Đại học đường Sài Gòn chính thức chuyển về Trung tâm Giáo dục Y khoa. Trung tâm có cơ sở vật chất tiện nghi, hiện đại, được sử dụng chung cho 2 trường Y khoa và Nha khoa, với 1 đại giảng đường 500 chỗ ngồi, 3 giảng đường với mỗi giảng đường có 300 chỗ ngồi, thư viện và đầy đủ các khu y học cơ sở cùng với các phòng thí nghiệm. 








 Trong buổi lể khởi công xây dựng công trình này, tổng thống Ngô Đình Diệm có bài phát biểu sau đây:

 Thưa quý vị. Tôi hân-hoan đến chủ-tọa lễ đặt viên đá đầu tiên cho Trung-Tâm Giáo-Dục Y-Khoa Sài-gòn. Dự-án quan-trọng này đã được Chánh-Phủ nghiên-cứu từ lâu, trong khuôn khổ chương-trình khuếch-trương ngành Đại-học, và hôm nay, với sự hợp-tác của Cơ-quan Viện-trợ Hoa-Kỳ, chúng ta bước vào giai-đoạn thực-hiện. Khi hoàn-thành, Việt-Nam sẽ có một Trung-Tâm Giáo-Dục Y-Khoa hoàn-bị, không kém gì những cơ-sở đồng-loại tân-tiến nhất vùng Đông-Nam Á. Tôi có lời cám ơn nồng-hậu Chính-Phủ Hoa-Kỳ đã giúp cho công trình này một ngân-khoản lớn, và ngợi khen các chuyên viên Mỹ Việt đã cộng-tác chặt-chẽ và hữu-hiệu trong việc thiết-lập các đồ-án. Sức khỏe của nhân-dân là một yếu-tố căn-bản trong cuộc tranh đấu để thoát khỏi tình trạng chậm tiến. Cho nên, ngay từ ngày chấp-chánh, tôi đã chỉ thị mở-mang các cơ-sở y-tế trong toàn-quốc, đồng-thời khuếch-trương cấp-tốc ngành chuyên-khoa y-dược. Trong chương-trình phát-triển này, một Trường Đại-học Y-Khoa đã được thành-lập tại Huế, ban Dược-Khoa tại Sài-gòn đã được nâng lên hàng một trường đại-học và hôm nay bộ-phận đầu tiên của Trung-Tâm Giáo-Dục Y-Khoa bắt đầu được xây cất tại đây và sẽ được hoàn-tất trong 24 tháng. Ngoài ra, những trường Cán-sự Điều-dưỡng và Nữ Hộ-sinh Quốc-gia cũng đang phát-triển điều- hòa. Như vậy, trong một tương-lai gần đây, số chuyên-viên y-tế các cấp sẽ không còn thiếu-thốn như hiện nay, và nhất là tại thôn-quê, sức khỏe của đồng-bào sẽ được chăm nom thêm phần chu-đáo. Sinh-viên Y-Khoa, Tại đây, các bạn sẽ có một ngôi trường xứng đáng, đầy đủ tiện-nghi để học-hỏi, nghiên-cứu, thực-hành, hầu trở nên những y-sĩ lành nghề. Lành nghề đề phục-ưu cho Dân lộc, để thực-hiện đồng-tiến xã-hội Việt-Nam. (Theo Văn Hóa Nguyệt San tháng 5-1963) 

Một số hình ảnh hiện nay của Trường ĐH Y Dược (cơ sở cũ): 








Tính đến 1975, Y Khoa Đại Học Đường Saigon là một trong số 8 Trường (Kiến Trúc, Khoa Học, Luật Khoa, Sư Phạm, Văn Khoa, Y Khoa, Dược Khoa, Nha Khoa) trực thuộc Viện Đại Học Saigon. Lý thuyết và thực tập các môn khoa học cơ bản được triển khai tại nhiều nơi khác nhau, đó là: Môn Vi trùng và Ký sinh trùng học: Viện Pasteur Saigon Môn Sinh hoá học: phòng thí nghiệm Bệnh viện Đô Thành (nay là Bệnh viện Sài Gòn) Môn Mô học và Cơ thể bệnh học (nay gọi là Giải phẫu bệnh học): quân y viện Coste (của quân đội Pháp ở gần Thảo Cầm viên, nay là trường nữ trung học Trưng Vương) Môn Cơ thể học (nay gọi là Giải phẫu học): Bệnh viện Chợ Rẫy. Các bệnh viện thực tập: Bệnh viện Grall (là bệnh viện đa khoa của người Pháp trước 1975, sau này là Bệnh viện Nhi đồng 2): ban đầu sử dụng tối đa lúc về cơ sở, phòng ốc và giảng viên, những năm sau giảm dần. Bệnh viện Chợ Rẫy: cho các môn Nội, Ngoại, Tai Mũi Họng, Mắt. Bệnh viện Đô Thành (nay là Bệnh viện Sài Gòn): cho các môn Nội, Ngoại, Cấp Cứu, Tai Mũi họng. Bệnh viện Chợ Quán (nay là Bệnh viện Bệnh nhệt đới và Bệnh viện Tâm thần): cho môn bệnh truyền nhiễm và bệnh tâm thần. Bảo sanh viện Từ Dũ (nay là Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ). Viện Bài trừ Hoa liễu (nay là Bệnh viện Da Liễu). Y khoa Đại học Đường Sài Gòn là nơi lưu trữ nhiều sách báo chuyên môn. Vào thời điểm 1970 thư viện của trường có 7.302 đầu sách tiếng Anh, 4.547 sách tiếng Pháp cùng một số sách tiếng Việt. Ngoài công việc giảng dạy, các nhân viên giảng huấn còn tích cực tham gia khảo cứu. Rất nhiều bài báo cáo khoa học đã được đăng trên các báo y khoa quốc nội và quốc ngoại, những bài này đã được liệt kê trong hai quyển sách Travaux de Recherche Scientifique I và II của GS Nguyễn Hữu và BS Nguyễn Đức Nguyên. Ngoài ra còn có là quyển sách Bibliographie des Thèses của GS Nguyễn Đức Nguyên, trong đó ghi lại đầy đủ tất cả các luận án đệ trình tại hai trường y khoa Saigon và Hà nội từ khi thành lập tới năm 1972. Từ năm 1957 đến 1975, trường cũng chủ biên một tạp chí y khoa là Acta Medica Vietnamica, xuất bản mỗi 3 tháng một lần, tổng biên tập là GS Phạm Biểu Tâm. Về đội ngũ giảng viên, Giáo sư của trường lúc ban đầu chỉ có 2 người, nên nhà trường đã dùng khả năng giảng huấn của các bác sĩ Quân y Pháp và các bác sĩ Việt Nam ở Saigon, niên khóa 1948-1949 có tới 10 Giáo Sư trong đó có GS. Massias (Nội Khoa) ở Hà Nội vào và GS. Trần Quang Đệ (Ngoại Khoa) từ Pháp về. Từ 1960-1963, đội ngũ Giáo Sư nhanh chóng được bổ sung bằng các thầy tốt nghiệp Thạc Sĩ (Agrégé) từ Pháp: GS Ngô Gia Hy (Niệu khoa), GS Trần Anh (Nhân chủng học), GS Nguyễn Văn Út (Da Liễu), GS Bùi Quốc Hương (Thần kinh), GS Nguyễn Ngọc Huy (Tim mạch), GS Lê Xuân Chất (Huyết học), GS Đào Đức Hoành (Ung thư) và GS Nguyễn Huy Can (Cơ thể Bệnh lý). Từ 1965-1966, những thầy cô đào tạo Tiến Sĩ, Thạc Sĩ từ Hoa Kỳ lần lượt trở về và phong Giáo Sư: Nguyễn Khắc Minh (Gây Mê), Bùi Duy Tâm (Sinh hoá), Nguyễn Ngọc Giệp (Phụ Sản), Vũ Quí Đài (Vi Sinh học) – Đỗ Thị Nhuận (Ký Sinh Trùng học), Đào Hữu Anh (Giải Phẫu Bệnh), Hoàng Tiến Bảo (Chỉnh Trực).



  Nguồn cán bộ giảng còn được bổ sung bằng những chuyên viên ở Châu Âu, Bắc Mỹ trở về như BS Nguyễn Thế Minh (Nội Khoa, Pháp), BS Trần Kiêm Thục (Bệnh Tiêu Hóa, Pháp), BS Trần Thế Nghiệp (Quang Tuyến, Pháp), BS Lê Dư Khương (Giải Phẫu, Đức), BS Liễu Thanh Tâm (Quang Tuyến, Pháp), BS Phó Bá Đa (Giải Phẫu, Mỹ), BS. Hoàng Minh Mậu (Tiêu Hóa, Mỹ), Lê thị Tuyết Nga (Nhi khoa, Pháp), BS. Thái văn Kim (Nhi Khoa, Pháp). Đến niên khóa 1967-1968, tổng số nhân viên giảng huấn là 91, với 16 GS thực thụ, 7 GS diễn giảng, 27 giảng sư, và 41 giảng nghiệm viên. Hàng năm, nhà trường tổ chức thi tuyển giảng viên từ nguồn Bác sĩ trong nước, những người trúng tuyển như Văn Tần (Ngoại khoa), Võ thành Phụng (Chấn thương chỉnh hình, Phẫu thuật Nhi), Văn Kỳ Chương (Ngoại Khoa), Văn Kỳ Nam (Ngoại Khoa), Nguyễn văn Điền (Chấn thương Chỉnh hình), Lê Kính (Chấn Thương Chỉnh Hình), Đặng Phú Ân (Niệu khoa), Nguyễn Thị Bích Tuyết (Sản Phụ khoa), Trần thị Minh Châu (Sản Phụ khoa), Trần Ngọc Bảo (Nội Khoa), Trần Đình Đôn (Nhi khoa), Nguyễn Bá Duy (Nhi Khoa), Phạm Long Trung (Lao và bệnh Phổi), Bùi Quang Minh (Lao và bệnh Phổi), Nguyễn Ngọc Lĩnh (Truyền Nhiễm), Nguyễn thị Trà Mi (Da Liễu), Lê Sỹ Quang (Sinh Lý), Lê Tiến Văn (Vi Sinh), Nguyễn thị Minh Chí (Vi Sinh), Bồ Kim Khánh (Vi Sinh), Mạnh Xuân Văn (Sinh Hóa), Trần thị Hồng Nhung (Sinh Hóa), Đinh Hải Tùng (Vi Sinh), Mùi Quý Bồng (Ký Sinh học), Đỗ Danh Thụy (Ký Sinh học), Phạm văn Ngà (Giải Phẫu Bệnh), Trần Xuân Mai (Vi Nấm & Ký Sinh Học), Nguyễn Thúy San (Vi Nấm & Ký Sinh Học), Bùi đắc Chí (Mô Phôi), Phùng Hữu Chí (Tiêu Hóa), Hoàng Xuân Chỉnh (Tiêu Hóa), Nguyễn Phú Hiếu (Tiêu Hóa), Đặng Thị Bạch Yến (Tim Mạch), …. Các giảng viên này được qui hoạch để đi du học, bồi dưỡng nghiệp vụ ở Hoa Kỳ và châu Âu. Đội ngũ nhân viên giảng huấn được sắp xếp theo 5 cấp: Giáo Sư Thực Thụ (Professeur tiltulaire) Giáo Sư Diễn Giảng (Professeur délégué) Giáo Sư Ủy Nhiệm (Professeur fonctionnel) Giảng Sư (Chargée de Cours) Giảng Nghiệm Trưởng (Assistant chef) Giảng Nghiệm viên (Assistant) Những người tốt nghiệp đại học có thời gian học dưới 7 năm (Dược Sĩ, Cử Nhân, Kỹ Sư, …), thi đậu kỳ thi tuyển giảng viên của nhà trường, sẽ được bổ nhiệm Giảng Viên. Những người tốt nghiệp đại học có thời gian học 7 năm (Bác Sĩ), thi đậu kỳ thi tuyển giảng viên của nhà trường, được bổ nhiệm Giảng Nghiệm Trưởng. Những người tốt nghiệp Tiến Sĩ , thi đậu kỳ thi tuyển giảng viên của nhà trường, hoặc những Giảng Nghiệm Trưởng có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy, được bổ nhiệm Giảng Sư. Những Giảng Sư có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy sẽ được bổ nhiệm Giáo Sư Ủy Nhiệm Những Giáo Sư Ủy Nhiệm có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy sẽ được bổ nhiệm Giáo Sư Diễn Giảng.

 Những Giáo Sư Diễn Giảng có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy sẽ được bổ nhiệm Giáo Sư Thực Thụ Từ Giảng Sư trở lên có quyền hướng dẫn Luận Án và tham gia Hội Đồng chấm Luận Án do Trưởng Khoa bổ nhiệm. Đến niên khóa 1967-1968, Y Khoa Đại Học Đường Saigon có 91 cán bộ giảng với 16 GS thực thụ, 7 GS diễn giảng, 27 giảng sư, và 41 giảng nghiệm trưởng – giảng nghiệm viên. [5] Về hệ thống trợ giảng, có các Nghiệm chế viên (préparateur) cho các bộ môn y học cơ sở. Các nghiệm chế viên này được tuyển hàng năm để trợ giảng cho đội ngũ giảng viên. Ứng viên là các sinh viên y khoa năm thứ 4 – 6, phải qua một bài thi viết, một bài thực hành và một bài thuyết trình 5 phút trước Ban Chủ Nhiệm Bộ Môn. Nếu được tuyển dụng và chính thức bổ nhiệm, người này sẽ được hưởng một mức lương tương đương 50% lương một bác sĩ mới ra trường. Công việc chính là chuẩn bị và giảng thực tập cho sinh viên, phụ Giáo Sư tiến hành nghiên cứu khoa học (kết hợp làm Luận Án). Về Nội trú các bệnh viện (Interne des hopitaux): tại các bộ môn lâm sàng có nhu cầu, nhà trường tổ chức thi tuyển nội trú. Ứng viên là các sinh viên y khoa năm thứ 5, thứ 6, phải qua một bài thi viết GIải Phẫu, Sinh Lý và một bài thuyết trình 5 phút trước Ban Chủ Nhiệm Bộ Môn. Nếu trúng tuyển, ứng viên sẽ chính thức bổ nhiệm và ưu tiên chọn Bộ Môn/Bệnh Viện theo kết quả xếp hạng. Các nội trú vẫn tiếp tục học như các bạn khác trong lớp, phần lớn thời gian của họ là ở bệnh viện để phụ giúp các thầy/cô trong giảng dạy lâm sang và nghiên cứu khoa học (kết hợp làm Luận Án). Khi ra trường, ngoài tước vị Bác Sĩ Y Khoa, họ còn có quyền sử dụng tước vị “Cựu Nội Trú Các Bệnh Viện” trong khi hành nghề. Ngoài ra, còn có các Nội trú Ủy nhiệm (Interne fonctionnel): sinh viên năm thứ 6, nếu có nhu cầu làm việc như Nội trú, có thể xin Giáo Sư Trưởng Bộ Môn, nếu được chấp thuận, Giám Đốc Bệnh Viện nơi Bộ Môn hợp tác có thể ký quyết định bổ nhiệm, kỳ hạn 6 tháng, có thể tái hạn. Khi ra trường, ngoài tước vị Bác Sĩ Y Khoa, họ không được quyền sử dụng tước vị “Cựu Nội Trú Các Bệnh Viện” trong khi hành nghề. Niên khóa đầu 1946-1947 chỉ có khoảng 12 người cho tất cả các lớp. Niên khóa 1947-1948 có 32 người. Niên khóa 1948-1949 tăng lên tới trên 80 người.Vào thập niên 1970 Trường Y khoa có 1400 sinh viên theo học và mỗi năm cho ra trường hơn 200 người. Số sinh viên nộp đơn dự tuyển là hơn 5.000 để chiếm 200 chỗ nhập học mỗi năm. Thời đó ở Việt Nam cũng như ở bên Pháp muốn đậu bằng y khoa bác sĩ phải đậu xong hai phần tú tài (I và II), qua một năm đầu tiên tại Đại Học Khoa Học và 6 năm y khoa. Từ 1954 đến 1962 muốn vào y khoa phải có chứng chỉ PCB (Physique – Chimie – Biologie) rồi ghi danh vào học; từ 1963 đến 1969, nhà trường tuyển sinh từ Tú Tài 2, sau đó gởi sang Đại Học Khoa Học học chứng chỉ APM (Année Pré-Medicine, Dự Bị Y Khoa); từ 1970 đến 1975 đổi từ APM sang SPCN (Science naturelle – Physique – Chimie). Học trình y khoa là 6 năm theo khuôn mẫu y khoa Pháp. Hai năm đầu học các môn cơ thể học, mô học, sinh hóa học, sinh lý, và triệu chứng học. Năm thứ ba và tư học các môn cơ thể bệnh lý, nội khoa và ngoại khoa. Cũng hai năm này sinh viên bắt đầu đi thực tập ở các bệnh viện. Năm thứ năm và sáu chuyển sang các môn bệnh lý chuyên môn: nhi khoa, sản phụ khoa, tâm thần… và tăng thời gian thực tập ở các bệnh viện. Năm thứ sáu cũng là năm hoàn tất luận án. Tân bác sĩ Y Khoa Sài Gòn đọc lời thề Hippocrates sau khi nhận văn bằng tốt nghiệp Văn bằng Tiến Sĩ Y Khoa Quốc Gia được cấp  phát sau khi bảo vệ thành công Luận Án trước Hội Đồng do Khoa Trưởng bổ nhiệm. 

Sau năm 1975, các trường Đại yojc y Khoa, Dược Khoa, Nha khoa nhập trở lại như thời kỳ trước năm 1961, thành trường Đại học Y Dược TpHCM, vẫn ở trụ sở cũ của Trung tâm Giáo dục Y Khoa trên đường Hồng Bàng. Sát bên cạnh trường xây thêm bệnh viện Đại học Y Dược. Trụ sở dầu tiên của trường Y Khoa ở Sài Gòn, vốn là nhà riêng của nữ bác sĩ Henriette Bùi Quang Chiêu Như đã nói tới ở đầu bài viết, từ năm 1947, phân viện của trường Y Dược ban đầu có trụ sở là căn villa số 28 đường Testard, gần góc với đường Barbé (sau năm 1955 đổi là Trần Quý Cáp và Lê Quý Đôn). Đây là tòa nhà có lịch sử rất đặc biệt, vốn thuộc sở hữu của bác sĩ Henriette Bùi Quang Chiêu – nữ bác sĩ đầu tiên của Đông Dương. Bà nhận bằng bác sĩ ở Paris năm 1935, về Sài Gòn và được giao giữ chức Trưởng khoa hộ sinh ở bệnh viện Chợ Lớn (nay là bệnh viện Từ Dũ). Đồng thời, bà cũng mở một dưỡng đường sản phụ khoa ở nhà riêng, chính là căn villa số 28 đường Testard. Sau 1945, do biến loạn lịch sử, dưỡng đường này đóng cửa, tới năm 1947 bà Henriette Bùi Quang Chiêu đã hiến tặng căn biệt thự này cho chính phủ Nam Kỳ Quốc để làm trụ sở của phân viện trường Y Khoa, tiền thân của trường Y Khoa Đại học đường. Đây là căn biệt thự hai tầng, tầng trên làm văn phòng Khoa Trưởng, phòng Hội Đồng Giáo Sư và cũng là nơi các sinh viên trình luận án – tầng dưới dành cho văn phòng hành chánh, phòng hội và thư viện – đằng sau là khu vườn trống, mấy năm sau xây thêm giảng đường. Hai giảng đường lớn được xây hai bên và 4 giảng đường nhỏ ở giữa xếp theo hình chữ U. Ngoài ra, các phòng thực tập khoa học cơ bản và y học cơ sở của trường nằm rải rác trong Sài Gòn, như Cơ thể học Viện (dùng cho sinh viên thực tập giải phẫu học) ở đường Trần Hoàng Quân (nay là đường Nguyễn Chí Thanh), bệnh viện Sài Gòn (dùng cho sinh viên thực tập hóa học), Viện Pasteur (dùng cho sinh viên thực tập vi sinh và ký sinh học). Một cơ sở riêng cạnh bên Cơ thể học Viện được dùng làm nơi thực tập cho các môn sinh lý, cơ thể bệnh lý (giải phẫu bệnh) và mô học. Căn nhà số 28 đường Testard (nay là Võ Văn Tần) nằm tại vị trí có vai trò lịch sử quan trọng, nguyên là đất cũ của ngôi chùa Khải Tường, là nơi mà bà Trần Thị Đang (sau là Thuận Thiên Cao Hoàng hậu) sinh ra Nguyễn Phúc Đảm (về sau là vua Minh Mạng), sau bị thực dân Pháp dẹp bỏ để xây trường tạm (tiền thân của trường Chasseloup Laubat – Lê Quý Đôn trước khi xây trụ sở chỗ ngày nay). Vị trí này được xây căn villa dành cho quan chức, sau được gia đình Bùi Quang Chiêu mua lại. Từ năm 1947, căn villa này trở thành trường Y Khoa, tới năm 1966 thì Y Khoa Đại học đường xây trụ sở mới lớn hơn bên Chợ Lớn (là Trung tâm Giáo dục Y khoa như đã trình bày ở trên), căn villa này trở thành nơi ở của các cố vấn quân sự Mỹ. Ngày nay villa đã không còn, thay vào đó là Bảo tàng chứng tích chiến tranh.

 Đông Kha – chuyenxua.net biên soạn