Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2025

MẤY LỜI KHUYÊN CHO SINH VIÊN Y KHOA

 

“Mấy lời khuyên sinh viên Y khoa” là một bài nói chuyện sâu sắc, nhân văn, truyền cảm hứng cho các thế hệ sinh viên y. Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm nhấn mạnh rằng nghề y không chỉ là một nghề kiếm sống, mà là một thiên chức đòi hỏi kiến thức, kỹ năng, lương tâm và tình thương. Người thầy thuốc không chỉ chữa bệnh, mà còn đồng hành, an ủi, thấu hiểu và tôn trọng người bệnh như một con người toàn vẹn.

Ông cảnh báo rằng nếu chọn nghề y chỉ vì danh vọng hay tiền bạc, người đó sẽ thất vọng. Trách nhiệm của thầy thuốc rất lớn, vì liên quan đến tính mạng con người. Đồng thời, người bác sĩ cần học suốt đời, luôn khiêm tốn, không tự mãn. Kiến thức y khoa thay đổi không ngừng, nên học không bao giờ đủ.
Ngoài chuyên môn, bác sĩ cần có văn hóa, hiểu biết xã hội, nghệ thuật để giữ tâm hồn trẻ trung, nhân ái. Thầy thuốc phải có lương tri nghề nghiệp, không chạy theo thương mại, không rao bán y đức.
Ông cũng nhấn mạnh tinh thần đồng nghiệp, tránh gièm pha, đố kỵ lẫn nhau. Với bệnh nhân, bác sĩ cần tế nhị, tôn trọng và không tiết lộ bí mật nghề nghiệp. Cuối cùng, bác sĩ phải sống giản dị, tận tụy, luôn ý thức trách nhiệm và sống vì nhân loại.
Sưu Tầm VÀI LỜI GIỚI THIỆU VẾ BS NGUYỄN HỮU PHIẾM Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm là một Tiến sĩ Y khoa tốt nghiệp tại Pháp, không rõ sinh năm nào, chỉ biết ngày 1-7- 1949 được bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Y Tế thời chính phủ Bảo Đại. Ông hoạt động trong nhiều lĩnh vực Giáo dục Chính trị, Văn Học, có nhiều bài viết trên các báo thời Pháp thuộc, quen biết với nhiều người trong các giới chính quyền cũng như các văn nhân, nghệ sĩ. Ông có mở phòng mạch ở Đà Lạt, rất được nhân dân thương mến vì tận tụy với bệnh nhân, nhất là bệnh nhân nghèo. Nơi đây ông là bạn chí cốt với nhà văn đứng đầu nhóm Tụ Lực Văn Đoàn là Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Khi Nhất Linh tự vẫn do chống chính quyền Diệm ông tận tình theo sát tới khi Nhất Linh mất. Vì nổi tiếng liêm khiết và hết lòng với bệnh nhân nên ở Đại Học Y khoa Huế ông được cử làm giáo sư phụ trách giảng dạy môn Nghĩa Vụ Luận. Năm 1968 trường Đại Học Y Khoa Saigon mời ông diễn thuyết về đạo đức y khoa tại trường này. Tài liệu hôm nay chính là bản văn ông diễn thuyết ngày đó. trích trong cuốn Lời khuyên sinh viên Y Khoa do ông chủ biên và do trung tâm học liệu bộ Giáo Dục xuất bản năm 1972. Tôi xin chép lại cho các bạn xem. Những ý tưởng trong bài tôi đã đọc trên 30 năm hôm nay xem lại thấy như mới, vô cùng cảm động. Các bạn hãy giữ nó làm chỉ nam giống như tôi đã giữ nó trên 30 năm nay. Đối với những người đồng cảm thì những lời trong bài “ngân lên vang vọng hòa nhịp với con tim người xem, gây ra một cảm giác không gì sánh được”. Khác với các bài giáo điều BS Phiếm trình bày bài nói chuyện rất chân tình, thực tế. Tác giả nhấn mạnh đến khía cạnh TRÁCH NHIỆM chính điều này đã làm nghề y khác hẳn những nghề khác, vinh nhục cũng từ đó mà ra. Nhiều người từ góc độ của nghề khác phê phán so bì với ngành y chúng ta, họ quên rằng bản chất của nghề y hoàn toàn khác hẳn các nghề khác. Mong rằng các bạn khi đọc xong lời khuyên này thì hãy còn chút gì đấy đọng lại trong tâm tư, đừng để gió cuốn đi. Vì bài khá dài nên tôi xin trích đăng làm vài kỳ để các bạn “tiêu hóa” dần dần, nhân tiện chú thích một số danh từ hay ý niệm hơi xưa cho rõ nghĩa. MẤY LỜI KHUYÊN SINH VIÊN Y KHOA BS Nguyễn Hữu Phiếm (Buổi nói chuyện do trường Đại Học Y khoa Huế tổ chức ngày 29-6-1968 Tại Trung Tâm Y Khoa Đại Học SAIGON) Các bạn sinh viên thân mến. Nghề thuốc mà các bạn đã chọn là một nghề cao đẹp nhất, và chính để chứng tỏ điều đó nên mới có buổi nói chuyện hôm nay một buổi nói chuyện thân mật giữa một người thày thuốc-đã hành nghề trên 30 năm-với những người thày thuốc tương lai, giữa một người anh cả với các em sắp sửa vào nghề, bởi dù muốn dù không các bạn và tôi, chúng ta từ bao nhiêu thế hệ nay đã được coi như thuộc về một gia đình-đại gia đình y giới- và riêng về điểm đó, ngay từ bây giờ, các bạn đã thấy nghề thuốc không giống như các nghề tự do khác. Các bạn thân mến. Các bạn đã chọn nghề thuốc với tất cả một tấm lòng nhiệt hứng, hăng say của tuổi thanh xuân, nhưng thử hỏi đã mấy ai chịu tìm hiểu những lý do thúc đẩy mình vào con đường ấy? Có một số bạn trẻ chọn nghề này, coi như một lẽ đương nhiên để nối nghiệp cha anh đã từng là thầy thuốc. Có một số, vì ham thích và cũng như mọi ham thích, khó lòng mà giải thích được tại sao. có thể vì hồi nhỏ ốm đau, đã được người thày thuốc tận tâm săn sóc, hoặc được mục kích những cảnh thập tử nhất sinh mà được bàn tay người bác sĩ cứu sống. Đối với một số nữa-rất hiếm- có lẽ làm nghề thuốc vì đó là mộtthiên chức (une vocation): ngoài mảnh bằng bác sĩ để hành nghề ra, còn muốn làm một cái gì khác nữa, như trở thành một nhà khảo cứu, một vị bác học hoặc một giáo sư đại học. Thiên chức theo định nghĩa, là một tiếng nói tự đáy lòng phát ra, nó thúc giục ta làm một việc nào đó, Giáo sư Maranon bảo là: ”một loại đam mê có tính chất của tình thương, kẻ nào có một thiên chức coi vật mình yêu như một mụa đích độc hữu, không thể chia xẻ được. Họ phụng sự mối tình yêu đó mà tuyệt đối không vụ lợi” và vẫn theo lời Maranon “sở dĩ nghề thuốc suy đồi vì thanh niên, khi chọn nghề đó không phải vì có thiên chức thật sự, mà chỉ vì hy vọng có một địa vị cao sang”. Người ta đã điều tra một số sinh viên y khoa để biết tại sao họ chọn nghề thuốc: trong số 100 sinh viên có tới 70 người trả lời: Không biết. Còn lại 30 có người bảo: học thuốc để tìm những thỏa mản tri thức, hoặc vì có một niềm tin hoặc vì nghề đó đã danh giá lại kiếm được nhiều tiền Tôi biết một số thanh niên sau khi đậu xong Tú Tàilưỡng lự không biết chọn ngành nào ở Đại Học bèn chọn đại Y khoa vì nghe lời cha mẹ hoặc họ hàng thân thuộc-những người này không phải là thày thuốc, không hiểu nghề thuốc là gì mà chỉ nhìn thấy một khía cạnh sai lầm là: nhà lầuxe hơi tiền bạc…. Những người đó xem nghề thuốc như nghề đi buôn và cho rằng học hành vất vả mới giật được mảnh bằng bác sĩ thì dĩ nhiên phải được đền bù xứng đáng, phải được thụ hưởng. Còn bổn phận của mình những gì, trách nhiệm ra sao họ đâu có biết hoặc nghĩ tới?Đối với hạng người này tôi xin nhắc lại ở đây câu nói của P. Le Gendre” “Kẻ nào chỉ làm nghề thuốc với hi vọng làm giàu, kẻ đó sẽ thất vọng, vì nghề thuốc chỉ được trọng vọng khi nào chúng ta có một tinh thần vị tha, hỉ xả. ” Các bạn thân mến Khi các bạn chọn nghề này, dĩ nhiên là để sinh sống, để nuôi gia đình, để hưởng một đời sống sung túc. tuy nhiên chúng ta không được quan niệm nghề thuốc như một nghề để làm tiền, vì nếu các bạn hành nghề đúng đắn ít khi các bạn có thể giàu được. Ngoài vấn đề mưu sinh ra tất còn có một lý do nào khác nữa nó thúc đẩy các bạn lựa chọn cái nghề đó. Tôi không dám dùng những danh từ quá to tát như: “cứu nhân độ thế” mà chỉ nói; sở dĩ làm nghề thuốc là để mong xoa dịu được phần nào những đau khổ của đồng bào, muốn giúp ích cụ thể cho xã hội. Có bạn học thuốc, như trên vừa nói, để thỏa mãn tri thức, thỏa mãn sự tò mò, những biết những kỳ quan của bộ máy con người ta, muốn tháo nó ra từng mảnh để xem bên trong có những gì, tại sao nó chạy, hoặc muốn tìm cho ra hạt bụi nào đó đã làm cho bộ máy kia tắc, rồi ngưng chạy… Đối với sinh viên y khoa, còn gì vui sướng và hồi hộp bằng lần đầu tiên ở trong bệnh viện, chỉ nhờ có nghe và gõ lên ngực bệnh nhân mà đã đoán được rằng trong màng phổi có nước và khi lấy chiếc kim chọc vào phổi thì quả nhiên thấy có nước thật. Không những học để biết mà còn để phụng sự nữa. Còn niềm vui gì bằng sau một thời gian vật lộn với tử thần người thầy thuốc đã đẩy lui được bệnh và trao trả cho bà me đứa con thân yêu của bà. Người ta muốn phê bình sao thì phê bình, một người thày thuốc sau một ngày làm lụng vất vả, bảo họ “hái ra tiền” chẳng hạn, nhưng tôi dám chắc ngoài việc chữa bệnh ra, còn phải có những động cơ nào khác nó thúc đẩy họ chứ không riêng gì tiền bạc. Họ không thể không băn khăn lo lắng mỗi khi rời một căn nhà, trong đó có một tính mạng đang bị đe dọa, hoặc đó là tính mạng của một người cha, cột trụ của cả một gia đình, hoặc tính mạng của một người mẹ với đàn con thơ dại đang cần có người săn sócdạy dỗ, hoặc tính mạng của một đứa hài nhi, chỉ có quyền sống chứ không được chết yểu… Mối băn khăn đó đôi khi còn ám ảnh người thày thuốc trong bửa ăn giấc ngủ của họ. Người thày thuốc không thể không có những suy tư sau khi ngồi bên giường bệnh kiên nhẫn nghe lời kể lể tâm sự của thân chủ mình, rồi cố tìm một lời nói dịu dàng để khuyên nhủ, ngõ hầu xoa dịu được phần nào những nỗi khổ đau về tinh thần, những khắc khoải hoặc dằn vặt của một lương tâm đang bị cắn rứt…. Người thày thuốc không những chỉ đem lại cho ta sức khỏe, họ giúp ta sống đã đành nhưng nhiều khi họ giúp ta nhắm mắt cho yên nữa. Chữa khỏi đã vậy, nhưng còn những khi thất bại ? Đã mấy ai thấu hiểu được nỗi khổ của người thày thuốc, dù ham tiền mấy đi nữa, sau khi thâu canh ngồi bên một sản phụ, những mong cứu sống được cả mẹ lẫn con, hoặc ít nữa một trong hai người, nhưng rút cuộc không cứu nỗi ai hết. Và trong khi người thày thuốc ấy, khác nào một kẻ bại trận, rửa tay-hai bàn tay đẩm máu và rung lẩy bẩy- thu xếp đồ dùng cho vào cặp rồi lủi thủi ra về, mặt mũi phờ phạ, đầu chóang mắt hoa, có những con mắt ngấn lệ, đầy đau thương, có khi đầy oán hận, nhìn theo và biết đâu không lên án họ. ? Ôi, VINH NHỤC của nghề thuốc! Người ta muốn phê bình người thày thuốc ra sao tùy ý, nhưng tôi dám chắc, trong khi hành nghề, họ không thể không có một niềm tin, một tia hi vọng, một ngọn lửa thiêng nào đó trong lòng. Nói tóm lại, thế nào họ cũng phải có một nhiệt hứng khiến họ cảm thấy sung sướng khi tìm ra căn bệnh. Một niềm vui khi phụng sự và thành công. Duhamel đã nói”Không có nghề nào cao đẹp và buồn bằng nghề thuốc, một nghề đói hỏi nhiều bổn phận, nhiều trách nhiệm tinh thần, nhưng chính trách nhiệm đó, nhất là trách nhiệm tinh thần, nó làm cho nghề chúng ta cao đẹp. ” Những trách nhiệm của người thày thuốc ở vào thời đại này rất nặng nề, vì không nói tất các bạn cũng rõ là chúng ta hiện đang sống trong một kỷ nguyên thật là huyền ảo, khoa học tiến quá mau, ngoài sức tưởng tượng của con người, ” đã làm cho chúng ta trở thành những bậc THẦN THÁNH trước khi chúng ta xứng đáng làm người”(Jean Rostand) Thật thế: chỉ trong vòng ba bốn chục, y học đã tiến triển và khác hẳn bốn ngàn năm trước và nếu ngoảnh lại nhìn chặng đường đã qua, chúng ta không thể không giật mình kinh ngạc. Giáo sư Jean Bernard đã viết không phải là quá đáng: ‘”Một người thày thuốc ở thời tiền chiến, vắng mặt sau một thời gian 30 năm và nay trở vềsẽ bở ngở không khác gì một bạn đồng nghiệp của ông sống dưới thời Hippocrate nay tái sinh trước ngày thế chiến thứ hai” Tuy nhiên chúng ta những kẻ hậu sinh, không được quên ơn các bậc tiền bối đã có công lớn với y học, hoặc ít ra cũng nhớ đến tên tuổi những vị đó, như Pasteur, Claude Bernard, Lister, Yersin, Fleming …vv. Nói về ngoại khoacách đây trên 40 năm một danh y về khoa giải phẫu, giáo sư J. L Faure trong bài diễn văn khai mạc một cuộc hội nghị quốc tế đã nói: “Ngày nay khoa giải phẫu đã lên tới chỗ tuyệt đỉnh rồi, khó lòng mà tiến hơn nữa” Tuy nhiên trên lãnh vực y khoa, ai dám tự hào mình là một nhà tiên tri, và ngày nay -1968- chúng ta có thể lập lại câu nói và biết đâu trong vài ba năm nhận xét của chúng ta lại không đúng nữa. Các bạn tất đã biết nhờ có thuốc mê (tìm ra năm 1816 ở Hoa Kỳ) mà người ta có thể giải phẫu với những điều kiện mới. Nhất là sau cuộc cách mạng do Pasteur khởi xướng, cho biết nguyên nhân của phần nhiều bệnh là vi trùng, rồi nhờ có phương pháp sát trùng (antiseptie) của Lister, nhất là phương pháp phòng hủ (asepsie) của Terrier, số người chết đi vì giải phẫu giảm đi rất nhiều. Đồng thời các nhà giải phẫu táo bạo hơn, dám đi sâu vào trong cơ thể, nào mổ ruột, mổ dạ con, nào giải phẫu xương, khớp xương, …vvv Mặc dầu khoa giải phẫu tiến bộ rất mau, mặc dầu kỹ thuật giải phẫu đã được hoàn bị, vẫn còn có người chết vì giải phẫu do những xáo trộn trong cơ thể. Quan trọng hơn hết là xáo trộn sinh lý (desordres biologiques) gây ra một loại bệnh hậu giải phẫu( maladie post-operatoire) Bệnh này được nghiên cứu kỹ càng để dần dà đưa tới phương pháp hồi sinh (reanimation) một phương pháp ngày nay rất thông dụng, không những ở ngoại khoa mà còn ở nội khoa nữa. Một trong những kỹ thuật kỳ lạ nhất của khoa gây mê là đông miên nhân tạo (hibernation artificielle) và nhờ phương pháp này, người ta có thể giải phẫu tim được. Một đàng, nhờ có phương pháp hồi sinh và thuốc mê, đàng khác nhờ có thuốc trụ sinh-mỗi ngày một nhiều-nhờ có thuốc ngăn đông huyết (anticoagulants) và sau hết nhờ tiếp máu, có khi thay cả máu nữa, mà khoa giải phẫu đã đi vào những con đường mà từ xưa tới nay không ai dám nghĩ tới như là mổ phổi để rồi cắt đi, mổ óc, tủy, xương sống, giao cảm thần kinh (sympathique) hoặc ghép mạch máu, ghép xương, ghép mắt, ghép thận …vv. Mới đây các bạn còn nghe nói về những vụ thay tim làm chấn động dư luận thế giới và khiến mọi người phải kinh ngạc và thán phục vô cùng. Bên cạnh những thành công rực rở đó nội khoa cũng phát triển rất nhanh. Nhờ có thuốc trụ sinh, phát minh vào cuối thế chiến thứ hai, nhiều bệnh truyền nhiễm như thương hàn, giang mai…. đã bị đẩy lui. Nhờ có Penicilllin-do Fleming tìm ra- nhiều loại vi trùng như: pneumocoque, streptocoque, méningocoque. đã bị tiêu diệt và nhiều bệnh phổi, bệnh đau màng óc cấp tính, bệnh lậu, có thể trị được, cũng như bệnh đau tim do vi trùng streptocoque viridans-còn gọi là bệnh Osler- mà xưa kia y học đã phải bó tay. Còn nhiều trụ sinh khác cũng được khám phá và đáng kể nhất là streptomycine-do Waksman tìm ra năm 1943- rất công hiệu để trị bệnh lao, một trong tứ chứng nan y của ta. Lần đầu tiên bệnh nguy hiểm này đã bị đánh bại. Ngoài trụ sinh ra, người ta còn tìm ra được nhiều loại thuốc hóa học nữa, trong đó phải kể Isoniazide rất thông dụng từ năm 1952 để chữa bệnh lao, song song với streptomycine và nhiều thuốc khác như Chlopromazine (largactyl) để trị các bệnh thần kinh. Từ ngày có thuốc này và những thuốc mới như resepine, tại các dưỡng đường điều trị người điên, loạn óc, ta không còn chứng kiến những cảnh huyên náo nữa, và nhất là bệnh nhân không còn bị đối xử như những con thú vật, mỗi khi lên cơn điên, bị nhốt trong chuồng sắt, chân tay bị trói chặt, như cách đây trên 30 năm, hồi tôi còn là sinh viên. Chúng ta cũng thể quên được những khám phá quan trọng trong ngành học về những bệnh do siêu vi trùng gây ra, và nên biết rằng ngày nay, nhờ có thuốc chích hoặc uống thuốc phòng ngừa mà nhiều bệnh như bệnh tê liệt (poliomyélite) có thể tránh được, cũng như bệnh cúm(grippe) bệnh sởi (rougeole). . vv Những bệnh truyền nhiễm ghê gớm như bệnh tả (choléra) bệnh dịch hạch (pest) bệnh cùi (hủi) bệnh hoàng đản (fièvre jaune) không còn là mối lo cho nhân loại như hồi xưa nữa. Và những bệnh như bệnh ngủ (maladie du sommeil) ở Phi châu, bệnh sốt rét cơn (paludisme) cũng đã bị đẩy lui. Nhờ có bột DDT mà hàng chục triệu người đã không mắc bệnh sốt rét cơn. Các bạn thân mến. Tôi không thể kê khai hết ở đây tất cả những phát minh khác của y học trong mấy năm vừa rồi, như: sinh tố, kích thích tố( đặc biệt là cortisone, A. C. T. H ) hoặc nói đến những phương pháp tối tân để định bệnh bằng quang tuyến, bằng isotope. . vv mà chỉ nhấn mạnh tới những khám phá quan trọng trên lãnh vực trị liệu thôi. Đời sống trung bình của con người cách đây hai thế kỷ là 35 năm, nay lên tới 70, và có lẽ chỉ trong vài chục năm nữa số người thọ 100 tuổi là thường. Nhưng chúng ta đừng quá lạc quan và yên trí rằng bất cứ bệnh nào cũng có thể trị được dù y học tiến bộ mấy đi nữa, hiện nay vẫn còn có một số bệnh mà người ta vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân, như bệnh tê thấp, bệnh chai động mạch(arterio-sclerose), bệnh ung thư máu (leucemie)…Còn đối với những bệnh ở thần kinh hệ do siêu vi trùng gây ra (virus neurotrope) chúng ta vẫn còn …. . bất lực. Y học hiện nay vẫn chưa có thuốc để cho ta khỏi già. Không những đừng quá lạc quan mà còn phải biết những nguy hiểm và những bệnh do chính thuốc gây ra (maladies thérapeutiques). Giáo sư Michel Conte đã nói: Hiện nay chúng ta đang đứng trước một bi kịch mà chúng ta không phải là khán giả. Chúng ta bị lôi cuốn vào trong một cơn gió lốc, và chúng ta phải chữa bệnh, tức là phải lực chọn những thứ thuốc mới, và cái đó không phải là chuyện dễ. Chưa bao giờ quyền lực của người thày thuốc lại mạnh đến thế, nhưng chưa bao giờ họ lại cảm thấy mình lúng túng đến thế. Trụ sinh khi dùng bừa bãi, có thể tạo ra nhiều bệnh nặng do vi trùng staphylocoque gây ra, hoặc bệnh nấm(mycose) hoặc làm cho máu biến đổi. Một vài loại sulfamide có thể gây ra bệnh ngoài da chết người được. Aspirine dùng nhiều có thể làm loét bao tử và xuất huyết, dùng corisone có thể làm thủng bao tử, gây kinh phong, hoặc làm cho bệnh lao cũ tái phát. Butazolidine có thể làm băng huyết được. Nhiều tai nạn lưu thông đã xảy chỉ tại dùng thuốc an thần, những thuốc này làm cho phản ứng chậm lại. Người ta cũng nói nhiều về trường hợp các lực sĩ chết vì dùng kích thích tố trong các cuộc thi điền kinh. Vẫn hay rằng những thuốc nói trên, trước khi đem ra dúng đã được thí nghiệm cho súc vật (Florey và Chain đã chích Penicilllin cho chuột và thấy không độc nên mới chích cho người, cũng như các loại thuốc an thần) nhưng làm sao biết chắc được là khi áp dụng cho người sẽ không nguy hiểm sẽ không nguy hiểm?Làm sao có thể tiên liệu được những phản ứng chậm, còn những thứ thuốc, thuộc loại thuốc hóa học, mỗi ngày một nhiều, càng công hiệu lại càng nguy hiểm) Người ta đã từng thí nghiệm thuốc thalidomide trước khi đưa ra thị trường nhưng có ai ngờ đâu rằng dược phẩm đó lại làm cho các sản phụ sinh ra quái thai. ? Các bạn thân mến. Tôi không có ý nêu ra đây những nguy hiểm của thuốc để các bạn sợ và đừng dùng, mà chỉ mong sao các bạn thận trọng mỗi khi các bạn cho toa, nhất là lưu ý các bạn đến những phản ứng bất ngờ có thể xảy ra với bất cứ loại thuốc nào. bởi vậy các bạn cần hỏi cặn kẻ bệnh nhân trước khi biên toa cho họ. Tôi đã nói với các bạn không có nghề nào có nhiều trách nhiệm bằng nghề thuốc, nhưng cũng không có nghề nào cao quý bằng. Cứu sống một người bị thương nặng nhờ giải phẫu kịp thời và đúng kỹ thuật, làm cho một bệnh nhân đang đau quằn quại chỉ trong phút chốc hết đau ngay, hoặc trả lại cho một bà mẹ đứ con yêu quý mà bà ta yên trí khó lòng qua khỏi, tất cả những cái đó, đối với một người không ở trong nghề, thật là phi thường và được coi như phép lạ. Trách nhiệm của người thày thuốc nặng nề ngay từ khi định bệnh cho đến lúc kê toa, hoặc giải phẫu, bởi tính mạng của một người nằm trong tay họ. Trách nhiệm đó làm cho người thày thuốc ngày đêm lo lắng đến quên ănmất ngủ. Tôi thành thật mong cho các bạn được sống những giờ phút lo âu hồi hộp đó vì chính nhờ thế, rồi qua khỏi mới cảm thấy được tất cả cái cao đẹp của nghề thuốc. Trousseau, một vị danh sư của Pháp, đã từng khuyên các sinh viên y khoa: ‘”Các bạn có bổn phận làm vẻ vang cho nghề của các bạn, cũng như nhờ nghề đó mà các bạn được vẻ vang, một nghề đòi hỏi nhiều hi sinh, một nghề trong đó ngày và đêm của các bạn sẽ là ngày và đêm của người ốm” Các bạn nên yên trí rằng các bạn gieo tận tâm mà sẽ chỉ gặt bội bạc. Các bạn sẽ phải gạt bỏ hết những thú vui đầm ấm của gia đình và thì giờ nghỉ ngơi sau một thời gian làm lụng vất vả. Các bạn không được sợ thối tha bẩn thỉu hoặc nguy hiểm, các bạn không được lùi bước trước cái chết khi cái chết đó xảy ra giữa những lúc nguy hiểm của nghề chúng ta, bởi chết như thế sẽ làm cho ai nấy khi nhắc đến tên bạn, phải tỏ lòng kính mến. ” Như tôi vừa nói, y học ngày nay tiến rất nhanh, và muốn trở thành một bác sĩ lành nghề, các bạn khi còn là sinh viên, phải siêng năng học tập, từ lý thuyết đến thực hành. Định bệnh chậm trễ hoặc sai lầm khi cho thuốc (cho quá hoặc không đủ liều) đều là những lỗi không thể tha thứ được. Bởi vậy thiết tưởng trong LỜI TUYÊN THỆ của Hippocrate cần ghi thêm câu này: Tôi xin thề suốt đời học hỏi Trong thời buổi này, bổn phận đầu tiên của người thày thuốc là phải học, phải biết, và phải biết cho đến nơi đến chốn, chứ không được biết lờ mờ. Không nói tất các bạn cũng rõ là những kiến thức của chúng ta ở trên mọi lãnh vực, chứ không riêng gì ở y khoa, chỉ trong vài ba năm, có khi vài tháng, đã trở thành” cũ rích”. vì vậy chúng ta cần phải trau dồi học hỏi luôn luôn, suốt đời chúng ta vẫn phải là sinh viên đầy nhiệt hứng. Bận rộn mấy các bạn cũng cố dành thì giờ để đọc sách, báo y học, ngõ hầu theo dõi những tiến triển của y khoa, và nếu các bạn có thể tìm tòi, khảo cứu được thì càng hay. Thật là một tai họa cho người ốm nếu chẳng may gặp phải ông thày thuốc, dù tử tế dù tận tâm, nhưng” gà mờ “khiến tiền mất mà tật vẫn mang. Người ta thường nói”có học mà không có lương tâm là sự đồi bại của linh hồn” (science sans conscience n’est que ruine de l’âme) nhưng có lương tâm mà không có học, nhất là khi làm nghề thuốc, cũng bằng thừa, nguy hiểm nữa là khác. “Tài năng và lương tâm chức nghiệp đều có liên hệ mật thiết với nhau, và giá trị nghề nghiệp phải đi đôi với giá trị đạo đức. Dốt nát và lừa bịp đều như nhau cả” (Gosset) Ngoài việc trau dồi kiến thức y học, người thày thuốc còn phải có một vài đức tính sau đây: a)Có óc nhận xét, nếu không sẽ bỏ qua những triệu chứng cần thiết để định bệnh. b) Có lương tri, tức óc phê bình, biết phán đoán, không quá tin ở những kỹ thuật hoặc thuốc mới nếu xét thấy những kỹ thuật và thuốc này trái ngược với bệnh lý (phòng thí nghiệm vẫn có thể nhầm được). Đừng ham mới chuộng lạ nếu thuốc kê cho bệnh nhân dùng chưa được các danh sư hoặc các bác sĩ đứng đắn xác nhận là công hiệu và không nguy hiểm. Có nhiều thứ thuốc hôm nay được ca tụng như thần dược mà chỉ trong một thời gian ngắn đã bị bỏ rơi (trường hợp vàng để trị bệnh lao, thạch tín (arsenic) để chữa giang mai. . ) Bởi vậy trước khi cho toa các bạn phải thận trọng và luôn luôn nhớ tới lời châm ngôn cổ: Primum non nocere (trước hết đừng làm hại). c) Có kinh nghiệm: Muốn có kinh nghiệm dĩ nhiên phải hành nghề lâu năm. Tuy nhiên đối với nghề thuốc cũng như với nhiều nghề khác, các bạn đứng tưởng rằng cứ nhiều tuổi nghề mà có nhiều kinh nghiệm, nhiều từng trải, vì có “những cái mà mình cho là kinh nghiệm, kỳ thực là những sai lầm chồng chất lên nhau” (Sergent) Một sinh viên y khoa năm thứ nhất, lần đầu tiên gặp một người mắc bệnh thương hàn lần sau gặp một người sốt liên miên, nom có vẻ mệt mỏi, chàng ta không do dự gì cả, bảo người đó bị bệnh thương hàn. Trái lại một sinh viên năm thứ năm, hoặc một sinh viên nội trú hoặc một vị giảng sư dù đã từng chữa hàng trăm người mắc bệnh đó rồi, bao giờ cũng dè dặt, không vội vả. Những người ít học lại càng hay tự phụ, còn những người học rộng tài cao lại càng khiêm tốn”khác nào những bông lúa lép bao giờ cũng ngạo nghễ vươn đầu lên trời, trong khi những bông lúa vàng nặng trĩu hạt thì nằm rạp xuống đất"(Leonard de Vinci ) Ngoài kiến thức về y học ra người thày thuốc còn phải có những đức tính tinh thần, nhất là phải có tình thương. Làm thày thuốc dù giỏi, dù có lương tâm mà thiếu tình thương thì chỉ được coi như mới làm có một nửa phận sự thôi, và nhất định không thể nào yêu nghề được. Từ mấy ngàn năm nay Hippocrate đã nhấn mạnh tới điểm quan trọng này rồi. Bạn săn sóc người ốm, sau khi đã thăm bệnh, cho toa, dặn dò cặn kẻ cách dùng thuốc như thế nào và cho biết bệnh tình nặng nhẹ ra sao, bao giời khỏi, rồi bạn ra về, như vậy đã đủ chưa? Tôi thấy là chưa đủ. Vì ngoài cái đau đớn về thể xác, bệnh nhân nào cũng mong được vỗ về, an ủi, bệnh nhân nào dù sang hèn, cũng muốn rằng người thày thuốc kiêm cả một nhà tiên tri nữa, biết hiện tại lẫn tương lai, chữa được mọi bệnh ngay cả tâm bệnh. Phải chính bản thân mình đã từng bị đau ốm mới biết thế nào là một người thày thuốc. Trong khi mong đợi thì xiết bao lo ngại, băn khoăn, rồi khi thấy mặt thì mừng rỡ, cảm thấy vững tâm ngay. Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của người thày thuốc đều quan trọng đối với người bệnh, và người này chỉ muốn cho ông thày lúc nào cũng ở bên cạnh mình, không rời mình ra, bất kể đêm khuya, bất kể họ mệt nhọc. Nào chỉ có thế thôi !Lại còn những lời trách móc nếu mời mà đến chậm, hoặc đi vắng vì hôm đó nhằm ngày chủ nhật hay ngày lễ. Chính nhờ có sự vững tâm nói trên mà nhiều khi bệnh mau khỏi. Bởi lẽ đó, y học muốn trở thành một nghề cao quý, cần phải là một nền y học nhân bản, nghĩa là hiểu thấu những gì thuộc về con người, con người toàn diện, con người trong quá khứ và hiện tại. Và nhất là phải tôn trọng con người. “Nhân bản là cảm thấy trong lòng con người ta trải qua bao thế kỷ, cái gì đó vẫn bất di, bất dịch, con người thì hoàn toàn và sống trong một thế giới thích hợp với họ, con người biết rung động trước thiên nhiên, biết rung động khi nghe một bản nhạc, khi đọc một cuốn sách khi suy ngẫm về những sự huyền bí của tạo vật. Nhân bản tức là biết cảm, biết yêu, biết thương xót” (Maranon) Một người ốm, không phải chỉ có phần xác, với tim, gan, phổi, thận mà thôi, lại còn có cái mà từ ngàn xưa Platon gọi là phần hồn nữa. Một bệnh nhân thuộc về bất cứ thành phần nào trong xã hội không phải là một con số, hay là một lá phiếu như ta thường quan niệm ở bệnh viện. Họ không phải là một kẻ vô danh, mà ngược lại, là một người như chúng ta, một người có tên, có tuổi, có nghề nghiệp, địa chỉ, có gia đình, có những hoài bão, ước mơ, cảm xúc. Các bạn nên biết rằng một bệnh nhân khi nằm trên giường bệnh, không bao giờ có những phản ứng tâm lý như một người bình thường, và buổi đầu thế nào họ cũng có những xúc động lo âu. Người thày thuốc không phải là một người thợ máy sữa chữa cơ thể như ta sửa một cái máy hư”Đó là một con người cúi xuống một con người khác, mong giúp đở họ, có gì cho nấy, đem lại cho họ một chút khoa học nhưng rõ nhiều tình thương”(Ignacio chavez). Muốn rằng thày thuốc là một con người máy và người ốm là một con số tức là không hiểu một tí gì về khoa tâm lý cả. Không nói tất các bạn cũng rõ là con người ta phức tạp vô cùng, đầy mâu thuẩn, có lúc sống với những bản năng cực kỳ hèn thấp, nhưng đôi khi lại có những hành động thật là cao thượng, siêu nhân. Và có lẽ bởi nhìn thấy rõ các nhược điểm đó nên người thày thuốc, mỗi khi gặp một bệnh nhân khó tính, hoặc đối xử với mình tệ bạc mà vẫn sẳn lòng tha thứ. Không có một bộ máy nào dù cho tinh xảo mấy đi nữa, có thể ủy lạo người ốm với những lời dịu dàng trìu mến được, và giữa người thày thuốc và con bệnh, bao giờ cũng có một sự cảm thông, một mối dây liên lạc mật thiết “một cuộc đối thoại kỳ lạ”(une colloque singulier) như Duhamel đã nói, một bên thì ký thác những gì bí ẩn trong cõi lòng của mình, còn một bên thì cho mà không hề đòi hỏi. Hiểu như vậy các bạn sẽ cảm thấy sung sướng vô cùng, và nếu cái học của các bạn không phải là cái học nhân bản thì thật là vô ích và đáng tiếc lắm. Tóm lại đối với người thày thuốc, xứng đáng với danh từ đó “không có bệnh mà chỉ có con bệnh thôi” (Mondor). ************* Ta thường nghe người ta phê bình ông thày thuốc này tốt, ông kia tử tế. Tốt hay tử tế không phải vì mát tay, mà vì ngoài công việc chữa bệnh ra, người thày thuốc còn hỏi han đến gia cảnh của thân chủ mình, đến sự học hành của con cái họ, có khi khuyên răn, có khi giúp đở, nghĩa là làm tất cả những gì có thể làm cho bệnh nhân và gia đình họ được hài lòng “ chỉ có người tốt mới có thể thành danh y được (Nothnagel) vì nhiều khi chính nhờ tấm lòng tốt của người thày thuốc mà bệnh nhân chóng bình phục. Ngoài tình thương và tấm lòng tốt ra người thày thuốc còn phải tế nhị đối với bệnh nhân nhất là ở bệnh viện. Các bạn đừng quên rằng người ốm bao giờ cũng có nhiều mặc cảm (mặc cảm tự ti) hay lo lắng và thường để ý tới cử chỉ và lời nói của các bạn. Các bạn đừng khinh người nghèo khó và nên nhớ rằng trước bệnh tật và cái chết ai ai cũng như nhau cả. Ambroise Pare người đã được coi như cha đẻ của khoa giải phẫu, nguyên là ngự y cho vua Chareles IX một hôm nhà vua đau cho vời ông lại và bảo: “Trẩm mong khanh săn sóc Trẫm chu đáo hơn những người khác” Ambroise Pare đáp”Tâu bệ hạ hạ thần rất tiếc vì kẻ hạ thần chữa thân chủ của hạ thần như chữa các bậc đế vương” Ngay đến những sa đọa về tinh thần của bệnh nhân các bạn cũng phải tôn trọng. Các bạn sinh viên thân mến, Như trên tôi vừa nói, trong nghề thuốc của chúng ta có nhiều buồn, nhiều đau khổ hơn vui, nhất là nhiều nhục hơn vinh. Có những người mà ta tận tình săn sóc lại là những kẻ bội nghĩa vong ân, và trái lại, có những người mà tự xét ta chẳng làm được gì gọi là đáng kể thì suốt đời họ lại coi ta như bậc ân nhân. ********* Nói tới những bổn phận của các bạn, tôi không thể không đề cập đến vấn đề bí mật nghề nghiệp (secret professionnel) Tuyệt đối người thày thuốc không được tiết lộ cho ai biết căn bệnh của thân chủ mình. Trong bệnh viện khi các bạn còn là sinh viên, các bạn không được nói to để người ngoài biết bệnh tình của con bệnh, hoặc cho biết họ mắc bệnh gì (một bà chủ muốn biết người làm công của mình mắc bệnh lao hay không). Ngay cả đối với nhà cầm quyền, các bạn cũng không được tiết lộ những gì bạn biết về thân chủ của các bạn. Khi viên cảnh sát trưởng hỏi ông Dupuytren để biết ai là kẻ phiến loạn trong số người nằm điều trị trong bệnh viện, ông ta đáp: ”Tôi không biết ai là phiến loạn cả, tôi chỉ biết có những người bị thương thôi” Các bạn cũng nên biết rằng các bạn có thể bị phạt tù nếu các bạn không kín miệng. Sau hết các bạn phải có lương tâm chức nghiệp, hay nói một cách vắn tắt, các bạn khi hành nghề phải có lương tâm. Giaó sư Jean Gosset đã từng nói;”Trong phòng giải phẫu người thày thuốc là chúa tể sau đức Thượng Đế nhưng có trách nhiệm trước lương tâm của mình” Không riêng gì thày thuốc ngoại khoa mà có thể nói một cách tổng quan là không một ai có thể kiểm soát nỗi một bác sĩ ngoại trừ lương tâm của họ Sởv dĩ ngày nay y học không có một địa vị xứng đáng trong xã hội, sở dĩ người thày thuốc không được trọng vọng, không được kính nể như hồi xưa (kể cả ở Việt Nam) là bởi trong nghề của chúng ta có một số con chiên ghẻ, thiếu lương tâm chức nghiệp. Các bạn thân mến Nghề thuốc mà các bạn đã lực chọn không giống những nghề khác. Nhất định không, một trăm, một ngàn lần không. Ai đã chọn nghề này cần phài biết rằng có nhiều cái không được phép làm, và phạm tới những cấm điều đó, tức là làm hoen ố nghề mình. Nếu các bạn không muốn sống khắc khổ, không sẳn sàng hi sinh tốt hơn hết là các bạn tìm một nghề khác, ngay từ bây giờ cũng chưa muộn. Không thiếu gì nghề ngoài nghề thuốc vừa đem lại cho các bạn danh giá tiền bạc lại không vất vả, nhất là không có trách nhiệm gì hết.

Thứ Tư, 9 tháng 7, 2025

Ban Dân y T.Ư Cục miền Nam đón nhận bằng xếp hạng Di tích quốc gia

 Giang Phương 

Nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng , nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân ... tham dự lễ đón nhận bằng xếp hạng Di tích quốc gia địa điểm Ban Dân y T.Ư Cục miền Nam được tổ chức tại H.Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.

Ngày 19.12, tại H.Tân Biên, UBND tỉnh Tây Ninh và CLB truyền thống Ban Dân Y miền Nam tổ chức lễ đón nhận bằng xếp hạng Di tích quốc gia địa điểm Ban Dân y T.Ư Cục miền Nam.

Bà Trần Thị Trung Chiến, nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế, Chủ nhiệm CLB truyền thống Ban Dân y đón nhận bằng công nhận xếp hạng Di tích quốc gia địa điểm Ban Dân y T.Ư Cục miền Nam do ông Trần Đình Thành, Phó Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa trao

GIANG PHƯƠNG

Buổi lễ có sự tham dự của nhiều cán bộ lãnh đạo Nhà nước, nguyên lãnh đạo các bộ, ngành T.Ư và địa phương. Theo đó, nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng; nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân; nguyên Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân; nguyên Bộ trưởng Y tế Trần Thị Trung Chiến, Chủ nhiệm CLB Ban Dân y; nguyên Bộ Trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến…đến dự và tham quan khu di tích.

Các nguyên lãnh đạo Nhà nước, bộ ngành T.Ư và địa phương tham quan nhà truyền thống Ban Dân y T.Ư Cục miền Nam

GIANG PHƯƠNG

Bà Trần Thị Trung Chiến, nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế, Chủ nhiệm CLB truyền thống Ban Dân y chia sẻ về những ký ức thời chiến cùng các nguyên lãnh đạo Nhà nước

GIANG PHƯƠNG

Advertisements

Nhà truyền thống được xây dựng 1 trệt, 1 lầu, trưng bày trên 50 hiện vật, kỷ vật

GIANG PHƯƠNG

Những kỷ vật được lưu giữ

GIANG PHƯƠNG

Hơn 50 hiện vật, kỷ vật do hội viên đã công tác tại Ban Dân y cung cấp

GIANG PHƯƠNG

Ban Dân y Trung ương Cục miền Nam đón nhận bằng xếp hạng Di tích quốc gia

Tại buổi lễ, ông Trần Đình Thành, Phó cục trưởng Cục Di sản văn hóa, Bộ VH-TT-DL đã trao bằng công nhận xếp hạng Di tích quốc gia địa điểm Ban Dân y T.Ư Cục miền Nam. Bà Trần Thị Trung Chiến, nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế, Chủ nhiệm CLB truyền thống Ban Dân y lên đón nhận bằng công nhận.

Bà Trần Thị Trung Chiến điểm lại ký ức một thời oanh liệt của Ban Dân y T.Ư Cục miền Nam

GIANG PHƯƠNG

Ông Võ Đức Trong, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh cho biết, tháng 10.1961, T.Ư Cục miền Nam chính thức thành lập để trực tiếp lãnh đạo cách mạng miền Nam.

Năm 1964, Ban Dân y T.Ư Cục miền Nam ra đời. Theo đó, Ban đã phối hợp với lực lượng quân y tổ chức cấp cứu, điều trị thương binh, bệnh binh, tổ chức các cơ sở sản xuất thuốc, sản xuất vắc xin, vật tư trang thiết bị y tế.. Đồng thời, Ban cũng xây dựng trường đào tạo cán bộ có trình độ trung cấp, đại học đáp ứng nhu cầu đội ngũ cán bộ y tế cho chiến trường miền Nam.

Ngoài ra Ban Dân y còn được nhận sự chi viện sức người, sức của hậu phương miền Bắc, của các nước và những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ cho cách mạng, làm nên những chiến công oanh liệt.

“Có thể nói, sự ra đời của Ban Dân y gắn liền với cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước vô cùng khó khăn, gian khổ. Địa điểm Ban Dân y T.Ư Cục miền Nam là chứng tích lịch sử để nghiên cứu và giới thiệu lịch sử trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước cho thế hệ mai sau”, ông Trong nhấn mạnh.

Theo ông Trong, di tích cấp gia vừa được đón nhận nâng tổng số di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh được công nhận đến nay là 26 di tích. Trong đó tại Căn cứ T.Ư Cục miền Nam (Di tích quốc gia đặc biệt) đến nay đã có 4 di tích lịch sử cấp quốc gia.

Bà Trần Thị Trung Chiến trao tặng học bổng cho học sinh

GIANG PHƯƠNG

Lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Nhà nước, các bộ ngành T.Ư và địa phương chụp ảnh lưu niệm tại khu di tích

GIANG PHƯƠNG

Nhân dịp này, CLB truyền thống Ban Dân y T.Ư Cục Miền Nam trao tặng 30 suất học bổng (trị giá 3 triệu đồng/suất) cho các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn, chăm ngoan học giỏi tại địa phương.
Trước đó, ngày 15.12 tại H.Tân Biên, bà Trần Thị Trung Chiến cùng các thành viên trong CLB cũng đã trao tặng 100 phần quà cho các gia đình có công cách mạng và hộ nghèo.

Câu lạc bộ truyền thống Ban Dân y miền Nam bầu ban chủ nhiệm mới nhiệm kỳ IV (2024 - 2029)

 Du Yên 

Câu lạc bộ truyền thống Ban Dân y miền Nam bầu ban chủ nhiệm nhiệm kỳ mới, tổng kết hoạt động trong nhiệm kỳ cũ và đặt ra các phương hướng hoạt động trong nhiệm kỳ mới.

Ngày 19.10, tại Bệnh viện Răng hàm mặt Trung ương TP.HCM, Câu lạc bộ truyền thống Ban Dân y miền Nam tổ chức đại hội tổng kết nhiệm kỳ III và nêu các phương hướng hoạt động trong nhiệm kỳ IV (2024 - 2029), bầu ban chủ nhiệm nhiệm kỳ mới.

Tham dự đại hội, có nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Bộ Y tế, lãnh đạo TP.HCM, Sư đoàn 5, các sở ban ngành và đông đảo thành viên câu lạc bộ.

Câu lạc bộ truyền thống Ban Dân y miền Nam bầu chọn ban chủ nhiệm mới - Ảnh 1.

Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên trao quyết định khen thưởng của Bộ trưởng y tế cho Câu lạc bộ truyền thống Ban Dân y miền Nam

ẢNH: DU YÊN

Tại đại hội, PGS-TS Trần Thị Trung Chiến, nguyên Bộ trưởng Y tế, Chủ nhiệm Câu lạc bộ truyền thống Ban Dân y Trung ương cục miền Nam có những phát biểu về phương hướng hoạt động trong nhiệm kỳ mới của câu lạc bộ.

Ngoài công tác chăm lo đời sống tinh thần và giúp đỡ cuộc sống những cán bộ cách mạng liên quan đến ngành y tế miền Nam. Trong nhiệm kỳ mới, câu lạc bộ sẽ tiếp tục triển khai công tác truyền thông về lịch sử hình thành và hoạt động của Ban Dân y Trung ương cục miền Nam nhằm giới thiệu cho cán bộ y tế trong ngành để biết, nhất là cán bộ trẻ; sưu tầm thêm nhiều loại cây thuốc nam đem về trồng; tiếp nhận các kỷ vật, hiện vật được các cá nhân trao tặng, trưng bày tại nhà truyền thống của khu di tích;…

Câu lạc bộ truyền thống Ban Dân y miền Nam bầu chọn ban chủ nhiệm mới - Ảnh 2.

Ban chủ nhiệm tặng hoa cho các đại biểu khách mời

ẢNH: DU YÊN

Bên cạnh đó, PGS-TS Trần Thị Trung Chiến gửi lời tri ân các tập thể, cá nhân đã đồng hành cùng câu lạc bộ thực hiện các chương trình hoạt động đóng góp cho sự phát triển của ngành y tế nói riêng và cho xã hội nói chung. 

Tại đại hội, các hội viên nhất trí bầu chọn 5 thành viên làm Ban chủ nhiệm nhiệm kỳ mới Câu lạc bộ truyền thống Ban Dân y miền Nam, trong đó PGS-TS Trần Thị Trung Chiến tiếp tục đảm nhiệm vai trò chủ nhiệm và 36 thành viên khác.

Câu lạc bộ truyền thống Ban Dân y miền Nam bầu chọn ban chủ nhiệm mới - Ảnh 3.

Ban chủ nhiệm, nhiệm kỳ 2024 - 2029 ra mắt và nhận hoa chúc mừng từ nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết

Hiện câu lạc bộ có hơn 650 hội viên, đây là nơi để các hội viên tham gia các hoạt động kết nối quân, dân y, xây dựng hệ thống kỷ yếu giúp tái hiện lại hình ảnh "áo trắng rừng xanh".

Câu lạc bộ truyền thống Ban Dân y miền Nam bầu chọn ban chủ nhiệm mới - Ảnh 4.

Câu lạc bộ truyền thống Ban Dân y miền Nam trao quyết định và gắn huy hiệu kết nạp thành viên mới


Đồng thời, giúp đỡ hội viên khó khăn trong cuộc sống, tổ chức các chuyến từ thiện để hỗ trợ gia đình chính sách, trao học bổng cho trẻ em nghèo, trẻ em vùng sâu, vùng xa, giúp đỡ hội viên khó khăn trong cuộc sống…


Video

Video  Ngày 19.12.2022, tại huyện Tân Biên, UBND tỉnh Tây Ninh và Câu lạc bộ truyền thống Ban Dân Y miền Nam tổ chức lễ đón nhận bằng xếp hạng Di tích quốc gia địa điểm Ban Dân y Trung ương cục miền Nam.

Ban Dân y Trung ương Cục miền Nam đón nhận bằng xếp hạng Di tích quốc gia




Thứ Ba, 8 tháng 7, 2025

Di Sản Của Y Viện Sùng Chính: Từ Tấm Lòng Bác Ái Của Cộng Đồng Người Hoa Đến Bệnh Viện Chấn Thương Chỉnh Hình Hiện Đại

 

Giới thiệu: Tiếng Vang Của Một Tên Gọi – Khám Phá Câu Chuyện Về Y Viện Sùng Chính

Để trả lời trực tiếp cho câu hỏi, trước đây tại Thành phố Hồ Chí Minh thực sự từng tồn tại một bệnh viện với tên gọi là Sùng Chính (崇正). Việc ghi nhớ tên gọi này thành "Sùng Trinh" là một sự tam sao thất bản tự nhiên qua thời gian do sự tương đồng về ngữ âm. Điều quan trọng hơn là cơ sở y tế lịch sử này không hề biến mất mà đã chuyển mình và phát triển, trở thành tiền thân trực tiếp của  

Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình hiện đại, tọa lạc tại địa chỉ 929 đường Trần Hưng Đạo, Phường 1, Quận 5.  

Câu chuyện của bệnh viện này không chỉ đơn thuần là việc thay đổi một cái tên. Nó là một di sản sâu sắc về tinh thần cộng đồng, lòng bác ái và lịch sử đa văn hóa của vùng đất Sài Gòn – Chợ Lớn. Báo cáo này sẽ đi sâu phân tích nguồn gốc của bệnh viện từ trong cộng đồng người Hoa gốc Hẹ (Khách Gia), giải mã ý nghĩa văn hóa sâu sắc đằng sau tên gọi "Sùng Chính", và theo dấu hành trình gần một thế kỷ của nó, từ một y viện từ thiện trở thành một trong những trụ cột của y học hiện đại tại Việt Nam.

Phần I: Những Nhà Sáng Lập – Chân Dung Cộng Đồng Người Hẹ (Khách Gia) tại Sài Gòn - Chợ Lớn

Người Hẹ (Khách Gia): Một Dân Tộc Luôn Dịch Chuyển

Để hiểu được tại sao Y viện Sùng Chính ra đời, trước hết cần hiểu về những người đã sáng lập ra nó: cộng đồng người Hẹ. Người Hẹ, hay còn gọi là Khách Gia (客家), là một nhóm người Hán riêng biệt với lịch sử di cư lâu đời và một bản sắc văn hóa độc đáo. Tên gọi "Khách Gia" có nghĩa là "những người khách" hay "người ở nhờ", phản ánh lịch sử hàng ngàn năm của họ khi di chuyển đến những vùng đất mới và định cư giữa các cộng đồng địa phương khác, nhưng vẫn giữ gìn mạnh mẽ ngôn ngữ, phong tục và bản sắc riêng. Chính lịch sử này đã hun đúc nên một tinh thần đoàn kết và tự lực rất cao trong cộng đồng.  

Hệ Thống Bang Hội: Trụ Cột Cộng Đồng Nơi Đất Khách

Tại Sài Gòn – Chợ Lớn, cộng đồng người Hoa được tổ chức thành các bang hội (thường gọi tắt là bang), là những hiệp hội dựa trên cùng phương ngữ và quê quán gốc, ví dụ như bang Hẹ, bang Quảng Đông, bang Phúc Kiến, bang Triều Châu. Hệ thống này không chỉ là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng mà còn đóng vai trò như một mạng lưới an sinh xã hội tự quản.

Các bang hội đã đứng ra xây dựng và vận hành mọi thứ cần thiết cho cộng đồng của mình, từ trường học, đình chùa cho đến các dịch vụ y tế và nghĩa trang. Việc các cộng đồng người Hoa khác nhau tự xây dựng bệnh viện riêng (như Bệnh viện An Bình của bang Triều Châu hay Bệnh viện Nguyễn Trãi của bang Phúc Kiến) cho thấy đây là một mô hình phổ biến. Trong bối cảnh đó, Y viện Sùng Chính không phải là một hành động từ thiện đơn lẻ, mà là một cấu phần thiết yếu trong hạ tầng xã hội của Bang Hẹ, được thiết kế để đảm bảo sức khỏe và sự an toàn cho các thành viên trong cộng đồng. Đây là minh chứng cho một tầm nhìn xa và mức độ tổ chức xã hội tinh vi, thể hiện trách nhiệm tập thể của Bang Hẹ đối với các thành viên của mình.  

Phần II: Một Hành Động Bác Ái – Sự Ra Đời Của Y Viện Sùng Chính

Lịch sử hình thành của Y viện Sùng Chính có thể được chia thành hai giai đoạn chính, phản ánh sự phát triển và lớn mạnh của chính cộng đồng sáng lập ra nó.

Giai đoạn 1: Nền Móng Ban Đầu (thập niên 1920)

Những ghi chép lịch sử cho thấy Y viện Sùng Chính ban đầu được cộng đồng người Hẹ thành lập vào năm 1920 , với quá trình xây dựng kéo dài đến năm 1926. Đây là phiên bản đầu tiên của bệnh viện, một cơ sở y tế có quy mô còn khiêm tốn, phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu cho cộng đồng.  

Giai đoạn 2: Cuộc Tái Thiết Vĩ Đại (thập niên 1960 – 1971)

Bốn thập kỷ sau, khi cộng đồng người Hẹ đã phát triển và thịnh vượng hơn, một bước ngoặt lớn đã diễn ra. Năm 1962, ông Từ Nhận Đức, khi đó là Trưởng bang Hẹ, đã đứng ra phát động một cuộc quyên góp lớn trong cộng đồng người Hoa để xây dựng lại bệnh viện một cách quy mô hơn. Trong cuộc vận động này, một nghĩa cử cao đẹp đã trở thành dấu ấn trung tâm của bệnh viện: ông  

Dư Nam Hi đã hiến tặng gần 6000 mét vuông đất với mục đích duy nhất là xây dựng một bệnh viện dành cho người nghèo.  

Nỗ lực chung này đã đơm hoa kết trái vào năm 1971, khi Bệnh viện Sùng Chính mới được khánh thành với quy mô hiện đại gồm 100 giường bệnh. Sự chuyển mình từ một y viện nhỏ bé của thập niên 1920 thành một bệnh viện khang trang vào năm 1971 không chỉ là một sự nâng cấp cơ sở vật chất. Nó phản ánh hành trình phát triển, sự thịnh vượng và tham vọng ngày càng lớn của cộng đồng người Hẹ, khi họ không chỉ chăm lo cho riêng mình mà còn mở rộng vòng tay bác ái để phục vụ cho cả những người nghèo khó trong xã hội Sài Gòn lúc bấy giờ.  

Phần III: Linh Hồn Của Tổ Chức – Giải Mã Ý Nghĩa Tên Gọi "Sùng Chính" (崇正)

Để trả lời cho câu hỏi "Tại sao có tên như vậy?", chúng ta cần phân tích sâu hơn về mặt ngôn ngữ và triết học của hai chữ "Sùng Chính".

Phân Tích Ngữ Nghĩa

Dựa trên các từ điển Hán-Việt , tên gọi "Sùng Chính" được cấu thành từ hai ký tự Hán:  

  • 崇 (Sùng): có nghĩa là tôn sùng, đề cao, kính trọng, tôn thờ.

  • 正 (Chính): có nghĩa là ngay thẳng, đúng đắn, chính trực, công chính.

Khi kết hợp lại, "Sùng Chính" mang ý nghĩa là "Tôn Sùng Sự Chính Trực" hoặc "Đề Cao Lẽ Phải".

Nền Tảng Triết Học: Đức Hạnh Nho Giáo Như Một Tuyên Ngôn Sứ Mệnh

Ý nghĩa của cái tên này còn sâu sắc hơn khi đặt trong bối cảnh văn hóa. Tại Trung Quốc, có nhiều học viện (thư viện) nổi tiếng trong lịch sử mang tên "Sùng Chính Thư Viện" (崇正書院). Các học viện này được đặt tên "Sùng Chính" để tôn vinh lý tưởng "chính khí" (正氣) của Nho giáo – tức khí phách ngay thẳng, tinh thần chính nghĩa, một khái niệm gắn liền với nhà yêu nước Văn Thiên Tường.  

Việc những người sáng lập ở Sài Gòn chọn cái tên này cho bệnh viện của mình không phải là một sự lựa chọn ngẫu nhiên. Đó là một hành động có chủ đích, thể hiện việc kế thừa một khái niệm triết học sâu sắc. Bằng cách đặt tên cơ sở y tế là "Sùng Chính", các nhà lãnh đạo Bang Hẹ đã đưa ra một tuyên ngôn đạo đức trước toàn xã hội: bệnh viện này sẽ được vận hành dựa trên những nguyên tắc cao nhất về sự chính trực, lòng nhân ái và sự công bằng. Đối với một bệnh viện được xây dựng vì người nghèo , cái tên này chính là một lời cam kết về một sự chăm sóc y tế tận tâm và liêm chính, một lời hứa danh dự được khắc vào chính tên gọi của tổ chức.  

Phần IV: Một Thế Kỷ Chuyển Mình – Hành Trình Của Bệnh Viện Qua Dòng Lịch Sử Hiện Đại

Kể từ khi ra đời, Y viện Sùng Chính đã liên tục biến đổi cùng với những thay đổi lớn của lịch sử Việt Nam, thể hiện qua các lần đổi tên và tái cấu trúc chức năng.

  • Năm 1978: Quốc hữu hóa và Tên gọi mới Sau năm 1975, Bệnh viện Sùng Chính từ một cơ sở tư nhân của cộng đồng đã được chuyển giao cho nhà nước quản lý. Bệnh viện được đổi tên thành Bệnh viện Trần Hưng Đạo Đa khoa và mở rộng quy mô lên 320 giường bệnh. Đây là một phần trong chủ trương chung của nhà nước thời kỳ đó và đánh dấu sự kết thúc vai trò quản lý trực tiếp của Bang Hẹ.  

  • Năm 1985: Sự Ra Đời Của Một Trung Tâm Chuyên Khoa Một bước ngoặt có tính quyết định diễn ra vào ngày 18 tháng 5 năm 1985. Theo quyết định của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Chấn thương Chỉnh hình của Bệnh viện Bình Dân được sáp nhập vào Bệnh viện Trần Hưng Đạo. Tổ chức mới được thành lập với tên gọi  

    Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình TP. HCM. Sự kiện này đã chuyển đổi hoàn toàn chức năng của bệnh viện từ một bệnh viện đa khoa thành một trung tâm y tế chuyên sâu hàng đầu về lĩnh vực chấn thương và chỉnh hình.  

  • Năm 2002 – Hiện tại: Kỷ Nguyên Hiện Đại Năm 2002, Trung tâm được chính thức nâng cấp và đổi tên thành Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình. Kể từ đó, bệnh viện đã không ngừng phát triển, trở thành bệnh viện chuyên khoa sâu hạng I, là tuyến cuối về chấn thương chỉnh hình cho toàn bộ các tỉnh thành phía Nam, với quy mô 500 giường bệnh nội trú và đội ngũ hơn 800 y bác sĩ, nhân viên.  

Bảng dưới đây tóm tắt quá trình phát triển và các lần đổi tên của bệnh viện qua gần một thế kỷ:

Năm

Sự Kiện

Tên Gốc

Tên Mới / Trạng Thái

Ý Nghĩa

1920–1926

Thành lập ban đầu

(Chưa có)

Y viện Sùng Chính

Bang Hẹ thành lập một y viện nền tảng cho cộng đồng.  

1962

Vận động từ thiện

Y viện Sùng Chính

(Quyên góp xây dựng mới)

Ông Từ Nhận Đức vận động và ông Dư Nam Hi hiến đất.  

1971

Khánh thành

Y viện Sùng Chính

Bệnh viện Sùng Chính (100 giường)

Trở thành bệnh viện tư nhân hiện đại phục vụ người nghèo.  

1978

Quốc hữu hóa

Bệnh viện Sùng Chính

Bệnh viện Trần Hưng Đạo Đa khoa

Chuyển từ tư nhân sang nhà nước quản lý, trở thành bệnh viện đa khoa.  

1985

Chuyên khoa hóa

Bệnh viện Trần Hưng Đạo

Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình

Sáp nhập khoa CTCH Bệnh viện Bình Dân, chuyển đổi thành trung tâm chuyên sâu.  

2002

Nâng cấp chính thức

Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình

Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình

Chính thức trở thành bệnh viện chuyên khoa hàng đầu trực thuộc Sở Y tế.  

Kết Luận: Di Sản Bất Diệt Của Sùng Chính

Ngày nay, Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình là một trung tâm y tế kỹ thuật cao, đi đầu trong các phẫu thuật phức tạp như vi phẫu nối chi thể đứt lìa, điều trị ung thư xương hay thay khớp nhân tạo. Nhìn vào sự hiện đại và chuyên môn hóa đó, thật dễ quên rằng nó là người kế thừa trực tiếp tinh thần bác ái của Y viện Sùng Chính năm xưa. Tòa nhà tại số 929 Trần Hưng Đạo, dù tên gọi đã thay đổi, vẫn là một tượng đài sống cho lòng nhân ái và tầm nhìn của cộng đồng người Hẹ. Nó vẫn tiếp tục sứ mệnh chăm sóc con người, thực hiện trọn vẹn lời hứa ban đầu trong một bối cảnh hiện đại.  

Tuy nhiên, di sản này cũng mang một thực tế đáng suy ngẫm. Sau hơn nửa thế kỷ phục vụ không ngừng nghỉ, cơ sở vật chất của bệnh viện đã xuống cấp nghiêm trọng và luôn trong tình trạng quá tải, được xem là một trong những bệnh viện xuống cấp hàng đầu thành phố. Điều này vừa là minh chứng cho vai trò không thể thiếu của bệnh viện, vừa là một biểu tượng cho những thách thức mà hạ tầng y tế công đang đối mặt.  

Câu chuyện về Y viện Sùng Chính, vì thế, không chỉ là một ghi chú lịch sử. Nó là một thiên hùng ca về cộng đồng, bản sắc, lòng nhân ái và khát vọng chăm sóc lẫn nhau. "Chính khí" – tinh thần chính trực và ngay thẳng được gửi gắm trong cái tên Sùng Chính – vẫn tiếp tục vang vọng bên trong những bức tường của bệnh viện, trong từng ca mổ cứu người và trong mỗi sinh mệnh được chữa lành.