Tiêu đề tự truyện nghề nghiệp BS Nguyễn Tấn Tờn
Tác giả Nguyễn Tấn Tờn
Nhà xuất bản nguyen thai son
tự truyện nghề nghiệp BS Nguyễn Tấn Tờn
https://play.google.com/books/reader?id=DS3ZAgAAQBAJ&pg=GBS.PA3&hl=vi
Thân tặng các đồng nghiệp trẻ tuổi của tôi .
Mến tặng các con tôi
.
LỜI TỰA
Phản ảnh gần hết cuộc đời tầm thường của tôi trong những tự truyện nhỏ là
một cố gắng. Nhưng tôi cũng cố “Thử”. Tôi nghĩ: “NÓ CŨNG CÓ MỘT CHÚT HỮU ÍCH”,
nếu có ai đọc đến. Đó là động lực giúp tôi “Can đảm” viết tự truyện của đời
mình. Mặc dù tôi biết rằng: Những người tầm thường như tôi không viết hồi ký,
hồi ức hay tự truyện. Thực tế trong xã hội có mấy người phi thường? Người như
tôi vẫn chiếm số đông .
Trong
tập tự truyện này, tất cả là người thực, việc thực... Cảm nhận thực của tôi .
Tôi
cố “sao chép” nguyên bản mặt chính diện của những câu chuyện ấy.
20 – 10 –
2006
Nguyễn Tấn Tờn
Không
ít người tin vào “Số phận”, tôi không dùng danh từ “Định mệnh”, tôi nghĩ “Số
phận” và “Định mệnh” có phần giống nhau và có cái gì đó khác nhau? Bàn đến hai
danh từ này chỉ có các vị uyên thâm, tôi chỉ là một người bình thường; Thế
nhưng số phận của tôi thì có cái không bình thường: Đó là tôi không có tuổi?
Tuổi nào cho tôi? Có lúc tôi sinh năm 1940, có lúc 1943, có lúc 1944… Tất cả
đều trên giấy tờ!
Tôi
rời quê nhà cũng là một số phận? Cái gì đó khiến tôi trôi dạt từ một vùng đất
vô cùng khắc nghiệt, nghèo đói…Để vào thành phố Sài Gòn năm 1957, như vậy lúc
đó tôi chỉ 13, 14, 15 hay 16 tuổi? Ai mà biết được? Tôi không có ý nghĩ đi “tha
phương cầu thực” và càng không có diễm phúc “đi học”. Nhưng số phận của tôi vẫn
trôi như thế…Rồi tôi lớn lên thành một thanh niên trong những năm tháng chiến
tranh ác liệt. Tôi cũng như phần đông những thanh niên hồi đó: Ai không muốn
hoà bình, ai không muốn thống nhất Bắc–Nam. Những năm tháng ấy tôi chờ mong
ngày thống nhất đất nước, tôi sẽ về quê thăm lại nơi “chôn nhau cắt rốn”. Tôi
mơ hồ đến căn nhà tranh vách đất và những nương khoai ruộng lúa của gia đình
tôi. Tôi nhớ và yêu thương nơi đó vô cùng. Tôi thấm thía và suy nghĩ là chốn
quê hương tôi càng nghèo bao nhiêu thì tôi càng thương nhớ bấy nhiêu! Đúng là
quê hương của tôi quá nghèo. Thời thơ ấu của tôi thì quá vô tư! Tôi mơ hồ nhớ
là chẳng có bữa nào được ăn “cơm” trọn vẹn, chỉ có khoai lang và sắn lát khô
“cỏng cơm”; Thức ăn thì mắm ruốc pha loãng với nước sôi chan ăn với cơm độn,
họa hoằn lắm mới có ít mỡ lợn nổi bồng bềnh, trong làng có không ít người sống
cảnh bi đát như chúng tôi. Làng được chia làm ba xóm, ngoại trừ xóm chợ, có chợ
Sòng: Đời sống tương đối, chợ Sòng nổi tiếng miền Trung (Nhất Sòng nhì Sãi hoặc
nhất Sãi nhì Sòng). Hai xóm còn lại trong đó có gia đình tôi: Quanh năm lo sợ,
sợ đói, sợ thời tiết nắng mưa thất thường, sợ bão lụt…Sợ mất mùa. Ruộng lúa chỉ
cấy được một vụ/năm, nếu được mùa thì khá hơn đôi chút. Trong 2 xóm chỉ có hai
nhà tường vôi lợp ngói, được kể là địa chủ nhưng họ cũng khó thoát khỏi cảnh
“ăn độn”. Cái sợ nhất của làng tôi là những lần “Tây càn”, mặc dù còn nhỏ xíu
nhưng tôi khó quên được khuôn mặt dữ dằn của đám Tây Phi Châu, khó quên được cả
làng như một biển lửa (nhà tranh cháy do chúng đốt). Và sợ nhất là đạn pháo
(canon) bắn từ thị trấn Đông Hà qua làng tôi bất cứ lúc nào. Tôi nghe được
tiếng “départ” của “canon” để đoán biết đạn rớt vào làng tôi hay các làng xa
hơn! Cứ mỗi lần nghe tiếng “départ” là chúng tôi chạy ra đống rơm, chui vào lỗ
đào sẵn (rơm được rút làm chất đốt tạo thành một lỗ để tránh bom). Hoàn cảnh
của tôi càng tồi tệ hơn: Tôi mất cha mẹ từ bé, tôi không có một chút ấn tượng
nào về cha mẹ tôi cho dù cố tưởng tượng cũng không hình dung được, mẹ tôi không
có ảnh để lại, làm gì chụp được ảnh trong khi mẹ tôi chết năm 1947, khi đang bế
tôi trốn “Tây càn”. Mẹ tôi tham gia cách mạng, bị người bà con làm lí trưởng
chỉ điểm cho Tây bắn chết mẹ. Nghe nói mẹ tôi chết tôi văng ra đâu đó trong góc
nhà! Mộ mẹ tôi được chôn gần nhà, đến thời chống Mỹ lại trúng một trái bom B52,
đến nay chỉ còn 1 cái ao! Mẹ tôi chết 2 lần! Mẹ tôi là một liệt sĩ; Hai anh
ruột tôi là Nguyễn Tấn Ngô và Nguyễn Tấn Hảo là những Đảng Viên Cộng Sản cũng
hy sinh trong chiến đấu vài năm sau khi mẹ tôi mất…Thế là tôi, con út, được bà
nội nuôi dưỡng, bà nội tôi quá già, chẳng làm gì được, chẳng có gì ăn! Tôi
không quên được những ngày hai bà cháu lùi củ khoai tôi “mót” được vào đống tro
củi rơm để ăn, tôi không quên được những bữa ăn do bà tôi nấu ít gạo và khoai
sắn trong cái niêu đất nhỏ bằng bàn tay trên bếp rơm rồi cắt một khúc khô “cá chuồn”
(loại khô rẻ nhất) treo trên bếp, đem lùi vào tro bếp ăn qua bữa! Thế nhưng bà
cháu tôi vẫn sống, làng tôi không ít người sống như thế. Quá khứ của tôi như
thế làm sao tôi không yêu mến quê hương? Thế rồi bà tôi qua đời: Buổi chiều đó
chỉ có hai bà cháu, tôi còn nhớ như in bà tôi nói “cháu qua bên thằng Hạnh nói
là “mệ” yếu lắm, “mệ” sắp chết!” Tôi chạy qua nhà chú Hạnh chỉ cách nhà tôi
chừng 10 mét (chú lớn hơn tôi 10 tuổi nhưng chú vai em nên gọi tôi là anh). Chú
và má chú qua đến nơi thì bà tôi mất. Cái chết nhẹ như lông hồng; Bà tôi mất
năm 1955, lúc đó tôi còn 5 anh chị nhưng 3 người đã tập kết ra Bắc, 2 anh tôi ở
miền Nam thì làm sỹ quan chế độ Diệm ở Sài Gòn. Thế là tôi như cây non mất rể.
Nhưng rồi cũng có “số phận an bài”. Người làng bán cái xác nhà của gia đình tôi
(cột nhà, xà nhà, đòn tay…) và con trâu đực có tên là “Trâu Bộng”, con trâu đã
quá già, nó gắn bó và là thành viên của gia đình tôi từ nhỏ! Số tiền không bao
nhiêu! Tôi có của thừa kế! Bà dì ghẻ giữ món tiền “còm” đó, đem tôi lên Cam Lộ
ở với bà, cho tôi đi học, tôi học lớp nhất (lớp năm bây giờ) mặc dù trước đó
tôi chưa học lớp nào cho ra hồn, tôi chỉ học “lóm” biết chữ, rồi tự tìm hiểu
thêm?! Năm 1956 tôi về Đông Hà thi đậu bằng tiểu học (hết cấp 1), lúc đó Đông
Hà chưa có trường Trung Học Đệ Nhất Cấp (cấp 2 bây giờ). Số phận lại “trôi” tôi
vào Sài Gòn, ở Sài Gòn tôi làm lụng kiếm sống và mơ ngày về quê hương!
Chiến
tranh ác liệt, vô số người cả hai bên hy sinh hàng ngày thế mà “số phận” vẫn cứ
trôi tôi đi theo con đường của “nó”.
Trong một thời gian dài tôi tránh được
“lính” mãi đến năm 1972 sau khi tốt nghiệp Bác Sĩ trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn
thì tôi cũng phải “đi lính”, làm việc trong các bệnh viện quân y từ năm 1973
đến 30-04-1975.
Năm 1975 thống nhất đất nước: Thế là ước muốn
về quê của tôi nằm trong tầm tay; Nhưng vẫn chỉ là một ước muốn! Tôi phải đi
học tập cải tạo, tôi phải đi làm kiếm sống, tôi lại tiếp tục làm việc trong
nghành y tế Xã Hội Chủ Nghĩa và rồi tôi phải cưới vợ, phải “có con”…Tôi túi bụi
trong những công việc “làm người” đó. Thấm thoát như vậy mà tôi đã quá già, đã
qua tuổi thọ hơn 4 năm; Năm 2002: trung ương hội người cao tuổi đã cấp giấy
Mừng Thọ cho tôi!...Nhưng tôi vẫn không về thăm quê được vì lý do này hay lý do
nọ?
Suy
đi tính lại: Tết Nguyên Đán năm 2006 tôi dẫn bà vợ về thăm quê nhà một chuyến,
về quê với nhiệm vụ là trình diện Ông, Bà sau 29 năm lấy vợ; Tôi hài lòng với
chuyến đi đó cho dù tôi chỉ nhìn thấy những nấm mồ quy tập hài cốt của ông bà,
cha mẹ và anh chị tôi trong nghĩa trang gia đình do người anh thứ tư của tôi là
ông đại tá Nguyễn Thanh Toàn, chị Nguyễn Thị Điệp, cán bộ y tế và ông anh trung
tá Nguyễn Tấn Hán, tất cả đã về hưu, đảm đang công việc. Tôi rất cảm ơn những
tấm lòng, những tình cảm chăm lo cội nguồn của anh chị tôi. Tôi thật vô dụng
nhưng “số phận” là như thế!
Nói
là “số phận” thì chẳng ai biết ngày, tháng, năm nào, mỗi người sẽ từ giã cõi
đời của họ? Số phận: Trong đó kết thúc là cái chết liên quan đến ngày, tháng,
năm sinh, còn tôi thì không biết ngày tháng năm sinh…Là một trở ngại của “số
phận?”; Thế nên tôi sẽ có một cái chết không bình thường? Trong cuộc sống đã
qua, tôi đã có quá nhiều lần để chết kể cả nhiều lần tôi “tha thiết” muốn chết
nhưng “Phán quan” tìm không thấy sổ tử của tôi nên tôi thường sống lại: Vì
ngày, tháng, năm sinh, kể cả cái tên thường ngày của tôi do tình cờ, cũng khác
với tên “cúng cơm”. Tôi tên thật là NGUYỄN TẤN TẦN nhưng vì một lý do nào đó
người “thư lại” làm khai sinh thế vì cho tôi lại ghi tên tôi là NGUYỄN TẤN
TỜN!..
Đằng
nào cũng CHẾT, ai cũng CHẾT, nhưng tôi biết tôi sẽ “CHẾT RŨ”, nghĩa là sống rất
lâu khi nào hết làm việc được, hết sống được thì tôi sẽ chết… “Diêm Vương” đã
quên gạch sổ tử của tôi từ lâu rồi “NGÔI SAO SỐ
PHẬN CỦA TÔI CÓ VẤN ĐỀ?”
30/08/06
Sài
gòn tháng 06 năm 1959 sáng nắng, chiều mưa. Thời tiết hồi ấy khá ổn định, không
như bây giờ. Tôi ở trong căn nhà của ông anh cả; Anh ấy là một sĩ quan quân
đội Ngô Đình Diệm, có bà vợ tức chị dâu
của tôi, bà là một người đàn bà đẹp, độc ác, dốt nát, mù chữ; Ông anh tôi cưới
bà ấy vì nhan sắc? Lúc đó tôi là một cậu bé 16 tuổi, học hết bậc tiểu học ở
Quảng Trị. Chiến tranh kết thúc, phân tranh Nam Bắc 1954, tôi lưu lạc từ Quảng
Trị vào Sài Gòn, lên Lộc Ninh lại về Sài Gòn ở với anh tôi. Tôi là một đứa bé
bị xô đẩy từ nhà này sang nhà khác. Tuy là một đứa bé nhưng tôi phải làm đủ thứ
việc nặng nhọc lúc ở làng 7 Lộc Ninh chỉ để có cơm ăn!
Trở lại
Sài Gòn năm 1959. Tôi ở trong căn nhà nhỏ ở một đường hẽm khu Bàn Cờ. Tôi không
thể chịu nổi cái tính độc ác của bà chị dâu; Là một đứa bé suốt ngày tôi ngồi
gục đầu nghĩ ngợi miên man, không dám ngửng đầu nhìn bà chị dâu, đúng là một
“quỉ dữ” trên trần gian, bà là một “người đẹp” nhưng dưới mắt tôi bà là người
đàn bà vô hồn, mặt bì bì, hai mắt hoang dại, chửi bới hận thù vô cớ. Tôi phải
thoát ra khỏi cái “địa ngục” đó .
Một
buổi trưa tôi đi lang thang từ
khu Bàn Cờ dọc theo đường Lê Văn Duyệt nay là đường Cách Mạng Tháng Tám; Tôi
đi, cứ đi, đi về hướng chợ Hòa Hưng… Để tìm cái gì ư? Tìm chỗ ở, tìm sự sống!
Tôi đi mãi… Đã đến nghĩa trang Đô Thành nay là công viên Lê Thị Riêng. Hồi đó
nghĩa trang Đô Thành đối diện với Lữ đoàn nhảy dù chế độ Ngô Đình Diệm. Trời
lác đác mưa, rồi mưa nặng hạt, áo quần tôi bắt đầu ướt, nhớp nháp toàn thân.
Tôi vào tá túc trong túp lều bên đường trước cổng vào nghĩa trang, túp lều xây
tạm của người vá xe đạp. Tôi nhỏ xíu, do thiếu ăn, do tinh thần của một cậu bé
không có tuổi thơ. (Tôi mất cha năm 1 tuổi, mẹ chết năm 3 tuổi). Cũng có vài
người trú mưa trong túp lều, nhìn họ tôi phải ngước lên! Có một người ĐÀN ÔNG
hỏi tôi “Cháu đi đâu mà ướt hết vậy?” Tôi trả lời: Cháu đi tìm nhà thuê. Ông ấy
cười! Ông chỉ cho tôi khá chi tiết: Cháu đi đến ngã ba đường Tô Hiến Thành, đi
khoảng 600 mét vào hẽm bên phải hỏi nhà
ông Thang, ông ấy sẽ cho cháu ở. Tôi thật sung sướng, tràn trề hy vọng. Sự sống
đã có? Lúc đó tôi không nghĩ là sẽ thoát được căn nhà “quỉ ám” ở khu Bàn Cờ.
Trời tạnh mưa, tôi theo lời chỉ dẫn của ông khách lạ. Tôi tìm đến ngay nhà ông
Thang, thật kỳ diệu, căn nhà nhỏ xíu trong căn hẽm nhỏ xíu, căn hẽm chưa đầy
1mét ngang! Ông đang lúi húi làm cái gì đó bên chiếc xe bán sữa đậu nành, ông
ngẩng lên nhìn tôi hỏi: Cậu hỏi ai? Tôi trả lời tôi hỏi ông Thang và xin thuê
nhà trọ. Ông xác nhận ông là ông Thang, ông cười và hỏi tôi làm gì? Tôi nói bừa
là học trò. Thế là ông đồng ý cho tôi ở không tốn tiền với điều kiện tôi dạy
hai đứa con ông học vở lòng. Tôi như người đã được lên thiên đường. Tôi hỏi xem
khi nào ông cho tôi đến ở? Ông nói lúc nào cũng được, ngay bây giờ cũng được.
Tôi trở về khu Bàn Cờ xin phép người chị dâu và anh cả để ra đi! Có lẽ họ ngạc
nhiên?
Thế
là tôi có chổ ở, có không khí để thở. Những ngày hạnh phúc nhất của đời tôi.
Tôi dạy hai đứa nhỏ con ông chủ học ê -a
khoảng 2 giờ một ngày. Còn thời gian dài tôi lang thang kiếm sống và học
chữ! Thời đó Sài Gòn có phong trào một số thầy giáo mở trường dạy học tư, đặc
biệt là dạy ba môn Toán-Lý-Hoá. Nói là trường tư thục nhưng có nhiều nơi chỉ là
một căn nhà trong hẽm khoảng 50- 60 mét vuông! Ăn-học, có ăn mới có học nhưng
tôi thì ngược lại, hoàn cảnh đẩy đưa tôi học trước ăn sau! Bụng đói meo nhưng
tôi lại đến các “trường tư thục”, đứng ngoài cửa nghe “lỏm” để học. Thật may
mắn cũng có vài đứa học như tôi. Hoàn cảnh như nhau, kết thân nhanh chóng; Tôi
bắt đầu có nhiều bạn. Một người bạn hơn tôi 3 tuổi anh ta có cái tên rất “Đắc
Đạo”. Anh Lê Đắc Đạo là người thân nhất của tôi. Anh cũng ở với anh chị di cư
từ miền Bắc vào. Anh khôn ngoan hơn tôi; Nhà anh chị của Đạo cũng quá nghèo
nhưng đầy tình người, đầy tiếng cười. Đạo làm đủ nghề, nghề bán báo, bán gạo,
bán vé số, viết chữ thuê cho mấy ông viết Tự Điển…Nhưng cũng chỉ đủ ăn cơm khổ
nhất! Tôi thì quá hiền lành, không nói
dối được, không biết ăn cắp, có gì nói hết; Sau này mới biết sống mà như vậy
thì thật là “vất vả”. Nhưng tôi là vậy! Đạo thường chỉ cho tôi làm vài việc vặt
vảnh cùng Đạo nên cũng qua ngày. Đương nhiên là đói dài dài…Rồi hai đứa đi học
“lỏm”. Thầy giáo ra đuổi thì chạy đi, một lát sau chạy lại học “lỏm” tiếp.
Tại Sài Gòn hồi đó có nhiều tiệm cơm
xã hội: phục vụ cho những người “Dưới đáy xã hội”; Trước cửa tiệm để hai nồi
cơm đầy, ăn tự do. Nếu chỉ ăn cơm với nước tương để sẵn trên bàn thì tha hồ
ăn “Ăn theo nhu cầu”. Nếu có tiền thì
kêu món ăn 5 đồng/1 bữa (cũng có 3 món ăn). Tôi thì ăn theo cả hai cách, có bữa
ăn 5 đồng 1 bữa, có bữa ăn “theo nhu cầu”. Hai quán ăn xã hội nổi tiếng là quán
Anh Vũ đường Bùi Viện và quán cơm xã hội đường Lê Văn Duyệt (Cách Mạng Tháng
Tám).Tôi thường ăn ở quán cơm Lê Văn Duyệt.
Thấm thoát như thế mà đã đến
mùa hè năm 1960. Tôi cũng nộp đơn thi tự do bằng cấp trung học đệ nhất cấp (học
hết lớp 9 bây giờ). Cũng đủ môn thi: Về Toán – Lý – Hoá đối với tôi là “chuyện
nhỏ”. Về văn chương chọn 1 trong 2 đề. Tôi nhớ năm đó đề thi 1 là lý luận học, đề
bài như sau:
Anh chị hãy biện luận về nội dung và hình thức
câu nói sau:
“
Học như thuyền đi trên dòng nước ngược
Không tiến ắt lùi ”
Vương Dương Minh
Đề 2: Văn chương: Anh chị hãy bình
luận nội dung và hình thức đoạn văn sau trong truyện Kiều:
Thanh minh trong
tiết tháng Ba
Lệ
là tảo mộ , hội là đạp thanh
Gần
xa nô nức yến oanh
Chị
em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập
dìu tài tử giai nhân
Ngựa
xe như nước áo quần như nêm .
Tôi
chọn đề 2. Tôi thích văn chương. Không hiểu sao tôi viết đề tài văn chương
trong 2 giờ đến hơn 10 trang giấy?
Thế là tôi đã đậu bằng trung
học đệ nhất cấp. Cuộc đời tôi đã thay đổi trong 1 năm. Một năm tôi đã lột xác
trong vài phút khi gặp người chỉ bảo cho tôi tìm nhà ở trước nghĩa trang Đô
Thành. Cho đến bây giờ đã 47 năm (1959-2006) mà tôi cũng không biết Ông ấy là
ai; Ông chủ nhà cũng không biết ai chỉ dẫn cho tôi đến nhà ông?
Năm 1960 tại miền Nam thi đậu bằng trung học
đệ nhất cấp là một chuyện khó. Tỷ lệ thí sinh thi đậu rất thấp khoảng 30-40%.
Đậu được bằng trung học đệ nhất cấp là người có nhiều triển vọng: Họ được dự
thi vào các trường cán sự y tế, cán sự canh nông… Học ra trường được làm việc
lương khá, chịu về các nơi xa, sâu có thể làm đến trưởng chi, trưởng phòng!
Tôi
vẫn là một cậu bé khù khờ, tiếp tục con đường vô định là đi làm gia sư, đi học
tiếp…Có cái gì đó? Có ai đó? Ông Tiên hay MỘT LINH HỒN BỊ ĐOẠ ĐÀY trong nghĩa
trang Đô Thành đã bảo tôi tiếp tục con đường học hành gian khổ và tôi đã đậu
được bằng tú tài bán phần (tú tài 1) năm 1961 và rồi đậu bằng tú tài toàn phần
và đậu vào trường Đại học y khoa Sài Gòn năm 1963 để trở thành người thầy thuốc
của 2 chế độ. Cái nghiệp đã đeo đuổi tôi từ năm 1963 cho đến nay, tay run, mắt
mờ, đủ thứ bệnh tật nhưng vẫn còn phải kiếm sống hằng ngày, khám và điều trị đủ
thứ bệnh tật; Lo cái lo của vô vàn người bệnh và lo cái lo của gia đình tôi và
của chính bản thân mình. AAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAA28 - 07 - 2006
Ông Hồ S… người Quảng Trị vào
Lộc Ninh trong những năm 40 theo con đường mộ phu cạo mũ cao su của người Pháp;
Nghe nói ở quê nhà lúc đó ông đã có vợ và có một người con gái? Nhưng ông vẫn
ra đi, bỏ quê hương nghèo đói quanh năm làm đồng áng không đủ ăn! Ông học hết
lớp 3 đậu bằng yếu lược, biết nói và viết chút ít tiếng Pháp. Vào làm việc đồn
điền cao su Lộc Ninh ông nhanh chóng được chủ Tây cân nhắc, được làm Cai. Ông
có thân hình khoẻ mạnh, mập mạp, mắt phải của ông lé đậm. Những người cu li cạo
mũ rất sợ ông. Sự khôn ngoan và “điếm đàng” thuộc bật sư! Nhiều người gọi ông
là “Con hùm xám Lộc Ninh”. Có người nói muốn xin vào làm cu li cạo mủ tại sở
cao su phải qua ông, có khi phải dâng vợ, con cho ông xử dụng?! Ông có một bà
vợ đẹp, nhỏ hơn ông hàng chục tuổi. Hai người sống với nhau nhiều năm không có
con, làm đủ mọi cách, lao động hết mình cũng không có con. Ông xin nhiều con
nuôi, kể cả con ông anh ruột của ông, được một thời gian thì “hỏng”, đứa thì đi
lính nhảy dù đánh lộn bị bắn chết, đứa thì dùng thuốc rầy tự tử, đứa thì bỏ đi.
Sau năm 1975 ông xin giao nộp gia sản cho nhà nước, vài năm sau ông chết do tai
biến mạch máu não. Đến nay vợ ông vẫn còn sống cô độc không con cháu ở thị trấn
Lộc Ninh.
Năm 1957, sau khi đậu bằng tiểu học tôi vào ở dạy kèm cho con
ông anh họ của tôi ở thị trấn Đông Hà, được vài tháng thì ông anh ruột của tôi
ở Sài Gòn gọi tôi vào ở với ông nhưng thực chất là ông anh tôi sắp đi làm thông
dịch viên cho quân đội Sài gòn ở Mỹ, ông muốn tôi vào Sài Gòn để giữ bà vợ trẻ
của ông! Tôi ở nhà ông anh được vài tháng thì bị bà chị dâu đuổi khỏi nhà?...
Những người bạn của anh tôi không ai dám giúp cho tôi ở dù là ở tạm một thời
gian ngắn, bà chị dâu tôi “dữ”quá. Bà ấy đến từng nhà quen của anh tôi hăm doạ,
hành hung nếu ai chứa chấp tôi bà sẽ “cào nhà”. Thật lạ, tôi không hiểu vì sao
bà hận thù tôi đến thế? Sau này tôi mới biết đối với ai bà cũng thế, ngay cả
với con đẻ của bà ta! Những người bạn của anh tôi nghĩ ra một sáng kiến là chỉ
có cách gởi tôi lên Lộc Ninh ở với ông Hồ S…, xa Sài Gòn là ổn. Thế là tôi
phiêu bạt lên làng 7 Lộc Ninh. Tôi lúc đó 14 tuổi, ngày đầu đến làng 7 Lộc Ninh
là một ngày mùa Đông, trời lạnh dễ chịu, làng 7 nằm giữa bạt ngàn cây cao su,
dân làng hầu hết là dân tộc Chăm, họ nói tiếng Chăm, sinh hoạt theo phong tục Chăm,
chế độ mẫu hệ. Tôi ở với vợ chồng ông Hồ S…, lúc đó ông đã về hưu, không còn
cái chức “Cai” nhưng vẫn còn đầy uy quyền vì ông giàu, cái giàu do nhiều năm
làm “Cai” được quan thầy chủ Tây nâng đỡ và được cu li cạo mủ cung phụng. Ông
càng giàu hơn vì ông rất tinh quái, nắm bắt sớm nghề nghiệp kinh doanh. Thiên
thời, địa lợi, nhân hoà: Ông mở độc quyền cửa tiệm đa dụng: Cho vay, bán đủ thứ
tạp hoá, đặc biệt là bia rượu, bán chịu cho công nhân cạo mủ và dân tộc Satiêng
các “Sóc” gần đó. Người ta đưa tôi vào ở tạm nhà ông là “đúng khía”. Tuy tôi
mới 14 tuổi, gầy còm nhưng nhanh nhẹn, tháo vát và rất siêng năng, tôi siêng
năng từ hồi bé tí. Cửa tiệm đa dụng của ông không mướn người giúp việc nên tôi
tha hồ “Có công ăn việc làm”, tôi làm tất cả những thứ vặt vảnh như con thoi;
ngày ngày gánh hàng chục gánh nước từ vòi nước chung của cả làng, cách tiệm
không xa, giặt áo quần cho ông bà chủ, bà chủ khen tôi là (ủi) quần áo giỏi,
lau bàn ghế, đổ rượu và nước lả vào lu để bán cho khách. Tôi được lệnh của ông
chủ cứ 4 lít rượu pha vào 1 lít nước đổ vào lu… Cứ thế, cứ thế tôi làm không
biết mệt. Buổi tối tôi ngủ ở cái phản để nhà ngoài coi tiệm cùng với con chó to
đùng, ông bà chủ ngủ phòng trong có cửa đóng then gài.
Làng
7 cách thị trấn Lộc Ninh hơn 10km. Từ làng 7 xuống Lộc Ninh phải đi qua làng 5
tức Lộc Tấn nằm ven quốc lộ 13. Từ Lộc Tấn đến thị trấn Lộc Ninh là quốc lộ 13,
đoạn đường ngắn nhưng qua nhiều đèo, dốc. Gần làng 7 có một “Soc” người dân tộc
“Satiêng” nằm sâu trong rừng rậm, “Sóc” có chừng chục căn nhà sàn, trên thì
người ở, dưới thì nuôi heo, gà, trâu, bò. Từ làng 7 vào sóc gần nhất phải đi
qua một con dóc dựng đứng dữ dằn, đường dóc lỏm chỏm đất đá, hố bò, rảnh to do
nước mưa tạo thành, hai bên đường dóc thỉnh thoảng có những chồng củi gỗ xếp
ngay ngắn, có lẻ do người dân tộc “Satiêng” chặt cây rừng bán cho các “Cai
thầu” từ thị trấn Lộc Ninh?
Cái
tiệm “đa dụng” của ông Hồ S… bị “đe dọa” do người từ Lộc Ninh cách “Sóc” hơn
chục km đi xe đạp đem các thực phẩm đa dụng vào bán tận “Sóc”, có lẻ những người
này đi từ 3-4 giờ sáng! Nguy cơ đe doạ đó nhanh chóng được ông “cáo già” giải
quyết: Ông sắm cho tôi một chiếc xe đạp, để sau ba ga xe là một cái giỏ cần xế to tổ bố, trên chất đầy
các loại thực phẩm gia dụng để cạnh tranh với phường chợ Lộc Ninh. Thế là từ
3-4 giờ sáng tôi đạp xe từ tiệm của ông xuống “Sóc” để bán, dĩ nhiên tôi đến
sớm hơn (từ tiệm đến “Sóc” chừng 3km) trong khi từ thị trấn Lộc Ninh đến “Sóc”
hơn 10km. Tôi đạp xe đi từ lúc trời chưa sáng, những đêm trăng thì tuyệt, ánh
trăng sáng trên con đường dốc ngoằn ngoèo trông như dải lụa trãi dài vô tận,
thật đẹp, thời tiết thì mát mẻ dễ chịu, chung quanh tôi thì núi rừng còn ngủ êm
như đất trời chỉ có mình tôi! Cứ thế xuống đến “Sóc” thì trời vừa hừng sáng,
như thường lệ các cô gái trần hai vú căng tròn nhựa sóng, các chàng trai đóng
khố, ông già, bà cả, trẻ con kéo đến bên chiếc xe đạp của tôi, người mua ổ bánh
mì, người mua chai rượu, kẻ mua trầu cau, người mua gói thuốc rê… Thoáng chốc
tôi bán hết. Cuộc sống thật dễ chịu, tôi đem tiền về cho ông bà chủ, tôi không
có nhu cầu xài tiền nên không biết bớt xén, hơn nữa bớt xén để làm gì, cất ở
đâu?!
Một
ngày nọ, buổi sáng trời còn ánh trăng, tôi thả xe xuống con dốc vào “Sóc”, nửa chừng dốc thì xe đứt thắng, đứt cả thắng
chân, thắng tay, xe chạy vù vù, tôi đủ để thấy cái nguy hiểm, cái chết đến gần
nhưng thời gian không đủ để suy nghĩ phải giải quyết ra sao? Cứ thế tôi giữ ghi
đông cho xe lao xuống… “ẦM”. Cả người và xe đạp của tôi đập vào khối cây gỗ xếp
bên con dốc, tôi không biết gì nửa, thời gian ngừng lại. Tôi lại hồi tỉnh, tỉnh
lại tôi thấy nặng ngực, ngộp thở, tôi ho mấy tiếng, khạc một miếng máu, tôi
thấy dễ chịu hơn. Tôi lóp ngóp ngồi dậy dựng xe đạp nghiêng dãy củi gỗ bên lề,
bò tìm những ổ bánh mì, những gói trầu cau, thuốc lá, bánh kẹo chất lên giỏ cần
xế trên xe đạp. Tôi gom không sót gì cả, chỉ có vài chai rượu đã vỡ, mặt trời
cũng vừa ló sáng, tôi tiếp tục dắt xe vào “Soc”, nơi tôi té xe đạp cách “Soc”
chừng 1 cây số. Đến sân của “Soc” thì tôi kiệt sức, theo thường lệ thì tôi chỉ
trễ 10-15 phút. Mắt tôi mờ dần, mất ý thức nhưng cố đứng giữ chiếc xe đạp có
giỏ cần xế sau baga xe. Dân trong “Soc” túa ra mua hàng như thường lệ, đúng lúc
đó tôi lại khạc ra một búng máu tươi, họ la chí choé, nói tiếng “Satiêng” tôi
không biết gì cả? Tôi mơ hồ thấy mấy người bế tôi lên nhà sàn, mơ hồ biết và
thấy họ xoa ngực tôi bằng một thứ nhựa lá cây xanh, cảm giác nhờn nhờn, họ cho
tôi ngậm vài cục muối hột (Muối hột hồi
đó có hột to bằng đầu ngón tay út). Một lát sau tôi tỉnh lại ngực tôi xanh, màu
xanh lá rừng.
Khoảng
7 - 8 giờ sáng tôi dắt xe đạp về tiệm ông chủ, tôi đã bán hết hàng! Tiền thì
được dân làng gói lại không thiếu đồng nào vì họ đã quen mua nên biết giá cả,
họ trả đủ. Tôi khoẻ nhanh quá! Cái ưu điểm của tuổi trẻ? Tôi kể lại vụ té xe
đạp, khạc ra máu và được người dân tộc cứu, ông bà chủ không nói gì! Những ngày
kế tôi vẫn còn đạp xe vào “Soc” để bán. Chiến dịch “cạnh tranh thương trường”
khoảng một tháng, ông chủ tiệm đã thắng, tôi cũng thành công với hai lá phổi có
tì vết cho đến bây giờ, nhưng có hề gì? Sự đau đớn của tôi thấm vào đâu so với
“NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC THƯỢNG ĐẾ BAN PHÁT QUÀ TẶNG”
Ngày 5 tháng 08 năm 2006
Năm
1963 tôi vào các trường Đại Học. Tôi ghi danh học chính thức 3 trường Đại Học
Quốc Gia. Thứ nhất là trường Đại Học Luật (Gần hồ Con Rùa), thứ hai là trường
Văn Khoa (Gần chợ Bến Thành), thứ ba là trường Đại học khoa học (Nay là trường
đại học khoa học tự nhiên, đường Nguyễn Văn Cừ). Thời ấy ba trường đó là những
trường trong nhiều trường được ghi danh tự do nếu đã đậu bằng tú tài toàn phần.
Ngoài những giờ đi “dạy kèm” kiếm sống, tôi chạy “sô” cả ba trường nhưng không
thấy “mệt” vì tôi còn trẻ. Buổi chiều từ 5 giờ đến 6 giờ tôi tập thể hình, rồi
ăn “cơm bụi” qua loa, từ 8 giờ đến 9 giờ tối tôi đi uống cà phê với bạn bè rồi
về nhà trọ, học bài cho đến khi nào ngủ gục trên bàn thì đi ngủ. Sáu giờ sáng hôm sau lại một ngày
như mọi ngày. Môt buổi sáng nọ tôi đang lang thang sân trường Đại Học khoa học
chờ giờ vào giảng đường (tôi đang học chứng chỉ MPC tức là Toán Lý Hoá) thì
thấy vài chục sinh viên chen chúc trước cửa một căn nhà gần giảng đường, tôi
ghé vào hỏi họ làm gì? Họ nói: “Xin đơn dự thi APM”. Tôi chẳng biết “APM” là
“mô tê” gì? Nhưng cũng chen vào xin đơn! Ngày hôm sau tôi góp đơn thi “APM”!
Bên
ngoài đường phố: Sinh viên, học sinh khắp nơi biểu tình rầm rộ, đòi lật đổ chế
độ độc tài Ngô Đình Diệm. Nếu xong việc thì tôi cũng đi theo dòng người hô hào
lật đổ, chống đối “độc tài”. Ai sao mình vậy. Tôi cũng là sinh viên cũng có
quyền biểu tình! Rồi ngày thi “APM” cũng đến. Tôi đi thi. Một thời gian sau có
kết quả niêm yết danh sách: Tôi đậu vào học “APM”, tôi đậu thứ 95 trong gần 200
sinh viên trúng tuyển. Hỏi các bạn tôi mới biết “APM” là chứng chỉ học tại
trường Đại học khoa học, thi đậu vào đã là chuyện khó, cuối năm thi đậu chứng
chỉ lại là chuyện khác! Đậu chứng chỉ “APM” mới được nhận vào học trường Đại
học y khoa. “APM” viết tắt là: Année Préparatoire de Médecine, nghĩa là năm dự bị
y khoa…! Ồ, tôi làm sao lại học cái ngành này, cái ngành học mà tôi không có một
chút khái niệm gì cả, ngay cả cái chữ y khoa tôi cũng thấy lạ! Tôi không hề tự
hỏi cuối con đường học, tôi sẽ có cái nghề gì? Thế nhưng tôi cũng bỏ hết các
trường đại học khác mà tôi đã ghi danh, đóng học phí để theo học cái chứng chỉ
“APM”, dù sao được học cái chứng chỉ này cũng không phải dễ, hàng ngàn sinh
viên thi vào chỉ đậu không quá 200. Tôi cố thử học xem sao? Các môn học chứng
chỉ “APM” đối với tôi thật “quái ác”. Toàn bộ bằng tiếng Pháp, thầy Pháp dạy
bằng tiếng Pháp đã đành, thầy Việt cũng dạy bằng tiếng Pháp! Tôi lại đậu bằng
tú tài toàn phần ban toán nên những vấn đề về khoa học tự nhiên dùng cho y học
tôi “dốt đặc”, ngay cả cái tên môn học tôi cũng quá lạ. Nào là Biologie
Animale, Chimiologie, Physiologie…Tôi lại dốt tiếng Pháp mà sách, bài giảng
toàn tiếng Pháp thì làm sao đây? Thôi đành “ăn dầm nằm dề” tại thư viện vậy!
Suốt ngày tôi ở thư viện, trừ giờ lên lớp và đi “kiếm ăn kế hoạch nhỏ”, tôi ôm
khư khư cuốn tự điển Pháp Việt bỏ túi nhỏ xíu, theo mình bất cứ ở đâu. Buồn
cười nhất là trong lúc học môn Biologie có nhiều danh từ động vật, tôi đọc đến
đâu thì tra từ điển đến đó, cố mà hiểu bằng cái đầu! Đặc biệt chữ “Cellule” là
“tế bào” trong sách câu nào cũng nói đến. Tôi tra từ điền thì lại nói “Cellule”
là “xà lim” là “cái phòng nhỏ”? Tôi không hiểu tại sao Biologie lại có “xà
lim”, “phòng nhỏ”? cái tự điển ngu xuẩn, chết tiệt…Nhưng nó không sai vì nó đâu
phải tự điển y học? Tôi lại cố lục lạo các tự điển khác thì có chữ “Cellule” là
“tế bào”, nhưng “tế bào” thì tôi cũng mơ mơ màng màng. Tôi học môn toán nên vấn
đề sinh học kém quá! Thế nhưng nhờ khỗ luyện, dần dần tôi cũng biết được chút
ít..Cuối năm thi, tôi lại có tên đậu chứng chỉ “APM”. Thật hú hồn! Một năm bỏ
cả mộng ước làm “luật sư”. Làm “cử nhân văn chương”. Làm “nhà toán học”! Cuối cùng
cũng đàng hoàng bước vào trường Đại học Y khoa Sài Gòn. Hồi đó tôi học mấy năm
đầu tại trừong cũ ở đường Trần Quí Cáp (nay là đường Võ Văn Tần), mấy năm sau
đó về trường mới khang trang hơn (Trường đại học y khoa bây giờ). Sau năm 1975
trường y khoa cũ ở đường Võ Văn Tần được làm nhà trưng bày tội ác Mỹ Ngụy.
Nhớ ngày tựu trường giáo sư thạc sĩ Phạm
Biểu Tâm Hiệu trưởng trường Đại học Y khoa Sài Gòn nói với sinh viên “lính mới
tò te” như chúng tôi về gian nan học nghề, về y đức và nhiều điều nữa. Sao mà
lúc đó lòng tôi nao nao sung sướng quá? Mặc dù tôi không biết sau này bản thân
tôi sẽ thành cái gì? Và có làm được việc gì hay không?Thế nhưng hơn 35 năm nay
tôi cũng đã làm được một người thầy thuốc bình thường và tự xét mình vẫn giữ
được “Y ĐỨC”
09-09-2006.
Tôi
vào trường Đại học y khoa Sài Gòn từ năm 1963, giai đoạn chót của chế độ Ngô
Đình Diệm. Bao thăng trầm của của nhiều biến động xã hội miền Nam những năm 60
từ Ngô Đình Diệm đến Dương Văn Minh, Phan Khắc Sửu, Nguyễn Khánh rồi đến Nguyễn
Văn Thiệu… Chỉ hơn mười năm thế mà cả miền nam sôi sục sóng gió, biết bao gia
đình tan nát khổ đau, vô số kiếp người bị đày đọa, xương chất thành núi, nghĩa
trang không còn chỗ cho bóng ma chen chúc. Chín năm ở trường Đại học y khoa tôi
cũng không thoát khỏi cảnh vô cùng chao đảo đó. Cuối cùng năm 1972 tôi ccũng
tốt nghiệp Bác sĩ y khoa. Học xong phải đi lính, Miền Nam lúc đó “lính” là một
quốc gia, “lính” là biểu tượng của toàn xã hội!
Ngày chọn nhiệm sở, tôi ở trong một bảng riêng, bảng “gia cảnh”, vì tôi
là người cuối cùng của dòng họ còn lại, tất cả các anh chị tôi đều tham gia
chiến đấu bên này hay bên kia. Bảng chọn nhiệm sở của tôi gồm 50 bác sĩ cùng
khoá, việc chọn nhiệm sở rất khoa học: Trên bảng có 50 ô trống của các vùng
lãnh thổ rải rác toàn Miền Nam, chọn chỗ theo thứ tự điểm lúc ra trường, người
thứ nhất lên chọn một trong năm mươi ô trống (mỗi ô trống có tên một nhiệm sở),
người thứ hai là tôi còn 49 ô trống,
có quyền chọn một trong 49 ô trống. Trong 49 ô trống đó có 5 ô ghi chỗ
làm việc tại Tổng y viện Duy Tân, Đà Nẵng, tôi đã chọn một trong 5 chỗ đó, cứ
thế bảng càng lúc càng ít ô (ghi chỗ làm), người cuối cùng bắt buộc phải chọn ô
cuối cùng! Càng gần hết bảng, chỗ làm càng gian nan, đó là những chổ ở chiến
trường, những chỗ trên cao nguyên núi rừng heo hút.
Cùng ra Tổng y viện Duy Tân Đà Nẵng với tôi còn có 4 Bác sĩ là các anh
Phùng Gia Thanh (tự Thanh mặt…) vì mặt anh giống như thế, anh Trịnh Bá Tường
(tự là Tướng Bà), anh Trần Đại An (tự là Ôn…), anh Nguyễn Văn Thuận (Tự là
Thuận cha cố) anh người công giáo, có anh ruột làm linh mục và tính tình của
anh cũng điềm đạm ôn tồn như cha cố!(Sau này trong 5 anh em chúng tôi chỉ có
một mình tôi làm việc tại quê hương, 4 anh khác đều di tản, vượt biên định cư
tại Mỹ).Ngày đi nhận nhiệm sở, chúng tôi cùng đi một chuyến bay từ Sài Gòn ra
Đà Nẵng, vào những ngày đầu năm 1973.Trình diện ông Bác sĩ, Trung tá, chỉ huy
trưởng Tổng y viện Duy Tân Đà Nẵng, ông phân công chúng tôi người thì về khoa
nội, kẻ thì về khoa ngoại, anh Phùng Gia Thanh thì về khoa X-Quang. Tôi vốn dĩ
bị run tay từ bé nên hoán đổi với anh Trần Đại An để được làm việc tại khoa
nội. Ông Lê Xuân Thảo chỉ huy trưởng Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng (hiện định cư
ở Mỹ) là một người bề thế, hai mắt sắc như dao, che giấu cái gian hoạt và tính
toán bằng cách nói chuyện với chúng tôi ông thường cúi mặt xuống một chút,
không nhìn thẳng vào mắt chúng tôi, có lẻ thói quen để ông che giấu “tuyệt kỷ”
của mình, ông cho phép chúng tôi nội trong ba ngày phải lo xong mọi việc cá
nhân, ổn định nơi ăn chốn ở để vào làm việc. Chúng tôi toá ra thành phố Đà Nẵng
để tìm nhà trọ. Thành phố Đà Nẵng lúc đó thật bát nháo, dân tình nhốn nháo,
quan lính vội vã. Những kẻ bỏ ngũ, đào ngũ… Tháo chạy sau chiến dịch hạ Lào, họ
tập trung về Đà Nẵng. Lúc đó Huế vẫn còn chính quyền, quân đội cũ, nhưng Đông
Hà, Quảng Trị đã tháo chạy tán loạn, trốn bom đạn, họ tập trung đông đúc vào
thành phố Đà Nẵng, dân cả một làng của tôi, gần thị trấn Đông Hà vào ở trong
những căn nhà ghép tạm bợ trên vùng cát mênh mông dưới chân đèo Hải Vân! Thành
phố đà Nẵng lúc đó hoang mang, vô hồn, chúng tôi thì vẫn vô tư, chỉ lo công
việc trước mắt, làm việc hằng ngày và nghỉ đến tương lai? Không biết bao giờ
trở lại Sài Gòn thân yêu, nơi in dấu ấn cả một quảng đời của chúng tôi .
Năm
1973 chiến tranh sắp kết thúc, Đà Nẵng sắp đổi chủ, cả Miền Nam sắp đón nhận
một sự kiện vĩ đại, sẽ chấm dứt hết những cái cũ… Những sự kiện long trời lỡ
đất sắp cuốn phăng tất cả, nhưng không ai nghĩ tới cái ngày “phán quyết” đó sắp
tới gần, quá gần, chỉ hơn hai năm sau, ngày 30-4-1975! Kẻ bon chen vẫn bon
chen, kẻ chạy chọt chức tước vẫn chạy chọt, guồng máy quân sự chế độ Thiệu vẫn
rêu rao ca ngợi chiến thắng!
Chúng
tôi, những con người bé nhỏ vẫn cần cù, chăm chỉ làm việc như những “con ong
thợ”, anh Thuận thì tổ chức phòng mạch ngoài giờ tại khu Thanh Bồ Đà Nẵng! có
người xây dựng cả dưỡng đường , bệnh viện tư tại bờ biển Mỹ Khê!
Tôi
được phân công khám bệnh tại khu ngoại chẩn (Khu khám bệnh đa khoa bây giờ),
hàng ngày tiếp nhận khá nhiều loại “người bệnh không bình thường”, khi thì một
ông sĩ quan cấp uý xin khám bệnh nghỉ phép, khi thì một ông sĩ quan cấp tá xin
khám bệnh nằm viện… Mặc dù họ chẳng có bệnh tật gì đáng kể. Chúng tôi bắt đầu
hiểu họ sợ chiến tranh, sợ ra chiến trường và hình như họ linh cảm chiến tranh
sắp kết thúc, họ không muốn chết vào cái ngày sắp được sống! Tại khu ngoại chẩn
lúc đó chúng tôi còn tiếp nhận số tù binh được trao trả tại vĩ tuyến 17, phân
loại điều trị, ngoài ra còn tiếp nhận số thương binh hải quân do chiến sự ở
Trường Sa. Trong năm 1973 tại Đà Nẵng thật bề bộn, có quá nhiều sự kiện dù chỉ
trong một đơn vị quân y nhỏ.
Một
buổi tối tôi thường trực tại khu ngoại chẩn Tổng y viện, khoảng 9 giờ tối tôi
tiếp nhận một bệnh nhân đặc biệt “Đại tá Châu”, tôi khám bệnh như thường lệ,
ông chẳng có bệnh gì đặc biệt, ông to, khoẻ, đúng là một “quan lớn”, tôi ghi
toa cấp thuốc cho ông thì có điện thoại của chỉ huy trưởng gọi tôi: Ông hỏi về
tình trạng sức khoẻ của ông đại tá, tôi nói ông đại tá chỉ “phải gió thông thường”,
tôi không thấy có gì đặc biệt , ông chỉ huy trưởng bảo tôi phải làm hồ sơ cho
ông đại tá nhập viện, tôi nói: “Thưa anh, ông đại tá chẳng có lý do gì để nhập
viện!” ông Thảo lạnh ngắt, dập máy, tôi nghĩ đơn giản là tôi làm đúng nghề
nghiệp (không phải là ngựa non háu đá). Sáng hôm sau tôi nghe ông đại tá Châu
đã nằm điều trị trong tổng y viện, tôi hơi bất ngờ; Sau đó 9 giờ sáng ông Lê
Xuân Thảo, chỉ huy trưởng Tổng y viện gọi tôi lên phòng làm việc của ông, tôi
không biết chuyện gì? Tôi bình thường bước vào phòng, chào ông theo kiểu nhà
binh, khác với thường lệ ông không mời tôi ngồi ghế đối diện , tôi cứ ngồi ,
tại sao tôi phải đứng như kẻ nô lệ ? Ông Thảo bắt đầu nói với tôi nhưng mắt hơi nhìn xuống , không nhìn thẳng mắt
tôi, ông lịch sự nói với tôi bằng học vị: “Hôm qua tôi đã điện thoại với “Bác
sĩ” bảo cho ông đại tá Châu vào nằm viện nhưng “Bác sĩ” vẫn cấp thuốc cho về,
“Bác sĩ” biết đại tá Châu là ai không?” Ông nghĩ một lát rồi xổ toẹt một hồi
nữa, giọng vẫn bình bình “Ông đại tá Châu là chỉ huy trưởng Quân Vận vùng 1
chiến thuật”. Ông xỉ vả tôi:
“Bác sĩ biết một mà không biết mười, Tổng y viện này hoạt động được là do ông
Châu… Bác sĩ phải có suy nghĩ chứ?” Ngừng một khoảng thời gian rồi ông hỏi tôi
có nói gì không? Tôi nói: “Dạ thưa anh, em xin lỗi, em xin học tập nghe lời anh
bảo”. Tôi xin phép ông đi ra khỏi phòng, chán nản vô cùng, chẳng biết tôi phải
học tập gì ở cái ông Lê Xuân Thảo đầy mưu ma chước quỉ đó, tôi biết ông đại tá
Châu chỉ huy trưởng Quân Vận vùng 1 chiến thuật để làm gì? Nhưng tôi phải cố
chịu, cố chịu… Tôi nghĩ như thế là tốt hơn ! Việc
của ông ta, ông ta cứ làm, việc của tôi, tôi cứ chịu đựng cho đến bao
giờ không được nữa hãy hay .
Một
năm sau nhờ một dịp may tôi hoán đổi công tác với Bác sĩ Trần Văn Di đang làm
việc tại quân y viện Nguyễn Huệ Nha
Trang muốn ra làm việc tại Tổng y viện Duy Tân Đà Nẵng. Tôi vào Nha Trang thế
chỗ của Di. Làm việc từ đầu năm 1974, lại chỉ một năm sau, tháng 2-3-4 năm 1975 Đà Nẵng di tản, Buôn Ma Thuộc
thất thủ, Nha Trang chạy thụt mạng. Tôi chứng kiến những ngày ấy và cũng di tản
từ Nha Trang vào Phú Quốc. Thế là hết những con người tính toán, bon chen, hành
hạ lẫn nhau. Tất cả những người trong guồng máy chính quyền Nguyễn Văn Thiệu
trốn chạy không được, đều vào trại học tập cải tạo. Tôi không biết có ông Bác
sĩ trung tá Lê Xuân Thảo hay không? Tôi thì chỉ hoàn thành nghĩa vụ cải tạo 4
tháng. Mấy năm trước có người bạn Việt kiều học với tôi thời tiểu học, về quê
ghé thăm và cho tôi biết anh ta và ông Thảo ở cùng Bang, gần nhau, hiện nay ông ấy lớn tuổi vẫn
còn sống ở Mỹ.
Xin
chúc mừng vị đồng nghiệp đàn anh đáng “nể”
9-8-2006
Đầu
năm 1975 tôi đang làm Bác Sĩ điều trị tại Quân Y Viện Nguyễn Huệ Nha Trang thì
có lệnh chuyển tôi lên Trung Tâm 2 tuyển mộ nhập ngũ tại Diên Khánh Thành.
Trung Tâm 2 tuyển mộ nhập ngũ là một Trung Tâm lớn thuộc bộ Tổng tham mưu chế
độ Sài Gòn nên quân số cơ bản khá đầy đủ, đặc biệt là phòng quân y của Trung
Tâm, thường xuyên có 3 Bác Sĩ, mặc dù công việc quân y chẳng có gì nhiều.
Trưởng phòng quân y là Bác sĩ Vĩnh Thuế, thuộc hoàng tộc triều Nguyễn, người
thấp, mập, điềm đạm, ít nói, đúng phong thái của một người quý tộc. Người thứ 2
là Bác sĩ Trạch, cùng khoá với tôi ở trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn, là người vui tính, luôn tươi cười, anh về
Trung Tâm trước tôi nên anh phụ trách X Quang phổi của tân binh, là công việc
quan trọng của phòng quân y và cả Trung Tâm. Tôi thì được giao việc phụ trách
Bệnh xá Trung Tâm, một công việc thật nhàn hạ! Nói là Bệnh xá nhưng chỉ lèo tèo
vài tân binh nằm bệnh. Có bệnh nặng thì được chuyển về Quân Y Viện Nguyễn Huệ,
chỉ cách Trung Tâm 10Km. Phụ tá cho tôi là một viên Sĩ Quan trợ y, anh ta đủ
sức để điều hành cái bệnh xá bé tí đó, thế nên chẳng có việc gì cho tôi làm,
tôi cũng chẳng đến bệnh xá làm gì, Bệnh xá với vài anh tân binh mới bị bắt lính
đau ốm xoàng xỉnh!
Tôi
ở thành phố Nha Trang, mỗi buổi sáng khoảng 7 – 8 giờ đi xe máy lên Trung Tâm
vào văn phòng ký vài cái công văn xin bổ sung thuốc, xin hủy thuốc quá hạn, ký
“khống” vài cái giấy nhập viện khẩn cấp cho cả ngày và ký một ít phiếu cho
thuốc tân binh của ngày hôm trước cho hợp lệ, tất cả các dạng giấy tờ đó do
viên sỹ quan trợ y điền sẵn. Thế cũng tốt, anh ta quen việc, hơn nữa có lẻ cũng
là “nồi gạo” của anh ấy. Nề nếp đã như thế tôi xáo trộn gây khó khăn làm gì cho
khổ tôi, khổ mọi người? Thế là việc làm của tôi thật dễ chịu, quá ít việc, có
lẻ 15-20 phút tôi giải quyết (ký) xong công việc trong ngày, lại đi xe gắn máy
về Nha Trang, 20 phút sau là có mặt
tại bãi biển, đọc sách báo, ăn trưa, ngủ trên bãi biển trong căn chòi của người
chủ quán.
Trung Tâm chẳng ai buồn “chăm sóc”
công việc của tôi, cũng có cái lý của nó: Chỉ huy phó là thiếu tá Trạm, trưởng
phòng nhân huấn là thiếu tá Quang vốn là đệ tử của anh hai tôi (Trung tá chỉ
huy trưởng Nguyễn Tấn Khôi), người tiền nhiệm vừa mới nghỉ hưu thì tôi được
chuyển về Trung Tâm. Những người cũ vị nể tôi một phần vì anh tôi đã cân nhắc
đề bạt họ thăng tiến kể cả phòng quân y cũng thế, mặt khác tôi cũng muốn sống
“êm êm” không thích dính mũi vào việc người khác, ngay cả cái Bệnh xá tôi phụ
trách, tôi cũng theo hội chứng “Mackéno” (mặc kệ nó), miễn sao đừng đụng đến
tôi là được. Nỗi buồn vì bao năm học hành bây giờ bỏ cả, hay nói đúng hơn là
chỉ dùng một chút xíu nghề nghiệp; Nhưng guồng máy quân đội là thế! Chính quyền
là thế, mình chỉ là hạt cát trong bãi cát mênh mông vô tận…
Công
việc của tôi cứ như thế cho đến ngày 27/03/1975 có một người bạn là Dược sĩ Đức
di tản từ Đà Nẵng vào tạm ở với tôi. Anh kể với tôi cái gian nan khi di tản từ
Đà Nẵng vào Nha Trang. Buổi chiều đó tôi và anh chứng kiến cảnh đoàn người
quan, lính, đàn bà, trẻ con, nồi niêu soong chảo trên những chiếc xe jeep quân
đội trải dài trên quốc lộ 1 vào thành phố, họ di tản vô trật tự, dữ dằn từ Buôn
Ma Thuột vào Nha Trang. Đoàn quân hốt hoảng như thế tôi đã được xem đâu đó
trong những phim tài liệu về sự rã ngũ của quân đội phát xít Đức thất trận thế
chiến thứ hai? Tối 27/03/1975 dược sĩ Đức đang nói chuyện về chiến tranh, về
cuộc tháo chạy hỗn độn ở Đà Nẵng thì loa phóng thanh ở Bộ Tư Lệnh quân đoàn 2
tuyên bố hùng hồn là quân đoàn 2 tử thủ, Nha Trang tử thủ, quân đội bắn bỏ
những ai cướp giựt ngoài đường phố. Thành phố giới nghiêm từ 9 giờ tối…Dược sĩ
Đức nói với tôi: “Tụi nó nói tử thủ là chạy trốn, ở Đà Nẵng cũng như thế”. Dược
sĩ Đức có kinh nghiệm trong việc tháo chạy nên nói thêm: “Tụi nó nói tử thủ để
rảnh đường cho nó chạy, đừng tin” Anh rủ tôi ngày mai 28/03 cùng anh chạy sớm
vào Sài Gòn. Tôi bán tin bán nghi và chưa có ý định chạy trốn!.
Sáng
28/03 Dược sĩ Đức dậy thật sớm, anh biết tôi không “chạy” nên chào tôi và đi
vào Sài Gòn (Hiện nay tôi không biết anh ở đâu và làm gì?). Tôi ngủ tiếp đến 7
giờ sáng, như thường lệ tôi đến quán phở Hợp Lợi ăn sáng để đi làm. Tại quán
phở tôi ngạc nhiên vì có quá nhiều Bác sĩ Quân y viện Nguyễn Huệ còn dùng phở ở
đó, có nhóm vài ba người thì đã ăn xong, đang đứng từng đám từ 3 đến 5 người
bàn bạc gì đó? Có đám còn ăn trong tiệm. Tôi vào ăn phở và suy nghĩ: Có cái gì
đó không bình thường? Vì từ 7 giờ tất cả Bác sĩ đều phải có mặt ở Quân y viện
để giao ban cùng Chỉ huy trưởng và làm việc; Tôi không hỏi làm gì? Có hỏi cũng
chẳng có thì giờ vì họ có vẻ vội vã tính toán! Ăn phở xong tôi đi xe gắn máy
lên Trung Tâm, đến nơi khoảng 8 giờ. Đoạn đường 10 km từ thành phố đến Trung
Tâm người đi kẻ lại vội vàng, đông hơn thường lệ nhưng không có vẻ gì là người
chạy loạn. Tôi đến Trung Tâm khoảng 8 giờ 20 phút sáng, như thường lệ: Tôi ký
các loại giấy tờ xong, định về thành phố thì nhân viên phòng quân y báo cho tôi
biết bác sĩ Vĩnh Thuế trưởng phòng và bác sĩ Trạm X-quang đã bỏ chạy. Ô! Thế là
họ lanh quá! Tôi chẳng biết gì cả! Tôi nán lại xem sao thì có loa phóng thanh
mời tôi đến hội trường Chỉ Huy Trưởng để bàn công tác? Đó không phải nhiệm vụ
của tôi, nhưng tôi vẫn cứ đến. Hội trường đủ cả Chỉ Huy Trưởng, Chỉ Huy Phó và
các Trưởng Phòng, chỉ thiếu Trưởng Phòng quân y. Tôi là người ngoài kế hoạch.
Sau khi các Trưởng Phòng báo cáo tình hình trung tâm trong 24 giờ qua, đến lượt
tôi: Không phải nhiệm vụ của tôi và tôi có biết gì đâu? Bác sĩ Vĩnh Thuế Trưởng
Phòng đã “chạy trốn”! Thay việc báo cáo tình hình tôi nói về thực trạng hiên
tại: “Hai bác sĩ phòng quân y đã chạy trốn, Tuy Hoà, Phú Yên đã thất thủ” tôi
nói tiếp: “Có lẻ Bộ Tư Lệnh vùng 2 chiến thuật tại Nha Trang cũng đang “chạy
trốn”. Tôi nói với chỉ huy trưởng: “Trung tá đã bị bỏ rơi rồi, “Họ” sắp vào đến
nơi”. Chỉ huy trưởng nói: “Ông không được thông báo gì cả!” Ông nhắc máy điện
thoại hỏi phòng tuyển mộ Tuy Hoà và Phú Yên, đều được trả lời là không có lệnh
gì cả (Ông nói với chúng tôi như thế!) Ông quên hẳn nếu các phòng tuyển mộ ở đó
có lệnh thì do Trung Tâm của ông chuyển đến, vì Trung Tâm 2 tuyễn mộ nhập ngũ
là một đơn vị hàng dọc, điều hành tuyễn mộ nhập ngũ gồm 12 tỉnh thuộc vùng 2
chiến thuật. Lúc đó ông quá bối rối nên quên mất quyền hạn nhiệm vụ của ông.
Thế rồi khỏang 10 giờ sáng hôm đó 28/03 cuộc họp kết thúc với lệnh của Chỉ Huy
Trưởng là mọi người “tuỳ nghi di tản”. Tôi đi ra khỏi phòng họp.Thiếu tá Trạm
và thếu tá Quang theo tôi và nói: “Bác sĩ về nhà Quang, tụi mình di tản vào Sài
Gòn bằng đường biển, hai anh đã bố trí tàu bên Đảo Tre. Tôi đồng ý rồi đi xe
gắn máy về thành phố khoảng 11giờ. Cảnh tượng thành phố thật hải hùng, đâu đâu
cũng thấy người cầm súng, lựu đạn đeo đầy người, đạn thì khoác từ vai áo quàng
qua bụng. Tiếng súng lác đác đâu đó. Toàn bọn đầu trâu mặt ngựa đi hội của,
nhưng đó chỉ là màn dạo đầu. Tôi “vù” xe nhanh về nhà trọ đem theo một bộ quân
phục, một bộ thường phục và vài cái giấy tờ tuỳ thân. Trên bàn làm việc tại nhà
trọ tôi để lại dưới kiếng cái có giá trị nhất là chiếc hình của chị tôi loại
3x4, chụp trước năm 1954, tôi vẫn thơ ngây nghĩ là biết đâu trong đoàn quân
giải phóng có chị tôi vào Nha Trang sẽ bắt gặp hình của chị trên bàn viết của
tôi? Tôi là người rất quý mến chị tôi nên giữ mãi cái hình nhỏ xíu đó từ năm
1954 lúc chị tôi đi tập kết. Bây giờ nghĩ đến tôi thật ngớ ngẫn!
Tôi
vội vàng xuống nhà thiếu tá Quang ở đường Xương Huân Nha Trang để bàn kế hoạch
ra Đảo Tre di tản vào Sài Gòn. Từ đường Xương Huân ra cầu đá, đi qua Bộ Tư Lệnh
quân đoàn 2 thấy ngỗn ngang, tan nát. Ngồi tên chiếc xe jeep mỗi người chúng
tôi lăm lăm khẩu tiểu liên, đạn đã lên nòng đề phòng bọn cướp giật! Nhưng may,
đến Cầu Đá bình yên. Chúng tôi mướn ghe qua Đảo Tre… Nhưng than ôi? Chẳng có
tàu nào cho chúng tôi vượt biển vào Sài Gòn (Mặc dù anh Trạm và anh Quang đã
đổi gạo của Trung Tâm để lấy tàu đi biển). Đảo Tre lúc đó tràn ngập quan quân,
dân thường, người già, trẻ em, họ hy vọng, họ chờ đợi phép màu. Chúng tôi ở đó
suốt đêm 28/03, sau đó chúng tôi di tản từ Nha Trang vào Phú Quốc bằng đường
thuỷ, là một quảng đường gian khổ .
Câu chuyện ngày cuối cùng tôi làm việc tại
Trung Tâm 2 tuyển mộ nhập ngũ đối với tôi cũng là một Trường Đoạn “gian nan
nghề nghiệp”.
22-08-2006
Một giờ trưa ngày 28-03-1975 thiếu tá Quang
lái chiếc xe Jeep quân đội, ngồi kế bên là vợ anh ta bế đứa con 3 tuổi với con
chó cưng của bé; Băng ghế sau tôi và thiếu tá Trạm hai người ngồi xa nhau, sát
cửa xe. Không ai nói gì, mỗi người suy nghĩ riêng. Xe đi ra đường Bạch Đằng,
dọc bãi biển Nha Trang, dừng lại trước sở tài chính, ở đó có viện trung uý chờ
sẵn với khẩu tiểu liên cầm tay. Tôi ngạc nhiên vì có thêm một người lên xe mà
tôi không được báo trước. Trạm nói để tôi yên tâm: Viên trung uý tài chính là
bạn thân của Quang và Trạm cùng “chạy làng” với chúng tôi. Gió từ biển thổi vào
làm nhẹ bớt cái nóng gay gắt của trưa hè, thế nhưng viên trung uý tài chính vẫn
khoác cái áo ấm, loại áo của quân đội Mỹ cung cấp cho lính chế độ Nguyễn Văn
Thiệu, chỉ dùng vào mùa đông! Tôi thoáng thấy chiếc áo khoác của viên trung uý
tài chính căng phồng. Tôi thoáng nghĩ đến tiền, tiền do anh ta thu tóm trong
công sở! Anh ta lại lăm lăm khẩu tiểu liên hướng mũi súng ra đường, liếc nhìn
tôi. Biết thế tôi xoay mặt ra bãi biển làm như đang nghĩ đến thành phố, nghĩ
đến con đường biển thân yêu tôi sắp giã từ. Như vô tình tôi xoay người một chút
cho đỡ mỏi, tôi bắt gặp đôi mắt dữ dội nhìn thoáng qua hai người bạn của anh ta
là thiếu tá Quang và thiếu tá Trạm.
Rồi
xe cũng đến được Cầu Đá. Mọi người bỏ xe, thuê ghe ra Đảo Tre để lên tàu di tản
vào Sài Gòn. Từ đất liền nhìn qua Đảo tưởng không bao xa nhưng sao ghe đi quá
chậm, mãi gần 3 giờ chiều mới đến được Đảo. Lên đến đảo 3 viên sĩ quan nói nhỏ
gì đó với nhau. Tôi biết là tôi không nên nghe. Tôi tản bộ trên bãi cát, sát
biển vòng theo núi đảo. Tôi nghĩ là họ đang chia chác tiền bạc do viên trung uý
tài chính thu gom, có lẻ họ đã thoả thuận trước? Chuyện đó chẳng dính dáng gì
đến tôi. Sau đó viên trung uý tài chính không có mặt trong nhóm chúng tôi?
Tôi
đang tản bộ cách Quang và Trạm chừng 10m thì nghe họ cải nhau! Có vẻ căng
thẳng, ý của Trạm cho rằng Quang là Việt Cộng nằm vùng “gài” Trạm qua Đảo; Vì
trước đó Trạm - thiếu tá chỉ huy phó Trung Tâm 2 tuyển mộ nhập ngủ - đã cấp
tiền gạo để Quang lo thuê xăng dầu, tàu thuỷ để tại đảo Tre để di tản vào Sài
Gòn, nhưng ra đến nơi thì chẳng có tàu ghe nào cả! Quang thì thanh minh, lời
qua tiếng lại có vẻ căng thẳng. Tôi nhìn lui xem sao thì thấy cả hai viên sĩ
quan đều cầm báng súng ngắn! Tôi cũng có một khẩu K54 của Trung Quốc, gọn nhẹ,
đeo thắt lưng; Khẩu súng nhỏ này ai đó đã cho tôi mấy ngày trước, tôi giữ nó
bên mình mặc dù tôi chưa bắn súng lần nào, tôi nghĩ có nó cũng đỡ sợ! Có lẻ hai
viên sĩ quan cấp tá cũng chỉ là những tay “gà mờ” trong vấn đề súng ống (Họ là
sĩ quan tham mưu). Thế nhưng tôi vẫn nghĩ đến một cuộc nổ súng có thể xảy ra!
Tôi
nghĩ rất nhanh là nếu súng nổ thì tôi không phải là đối tượng cho chúng “bắn”
nhưng để phòng xa tôi khoan thai đi dọc bãi biển, xoay lưng về họ nhưng hai mắt
chếch lên sườn núi; Nếu có súng nổ tôi sẽ chạy theo đường chữ chi lên núi!
Phòng chừng, ngộ nhỡ?... Chứ họ “bắn” tôi để làm gì? Lúc đó trên đảo lại có
thêm một gia đình quen của chúng tôi, gia đình thiếu tá Đèo, trưởng phòng tuyển
mộ nhập ngũ tỉnh Khánh Hoà, vốn là đàn em của anh tôi, vợ Đèo có bầu gần ngày
sinh, cả gia đình cùng tính chuyện di tản, chị ta biết có tôi nên lẻo đẻo theo
sau tôi, chị tin tưởng có tôi nếu chị sanh rớt trên đảo thì cũng đỡ lo! Buồn
cười nhất là tôi bước ra bãi biển chị cũng đi theo, tôi lên bãi cát chị cũng
lần theo.
Lý do nào đó trong phút chốc Quang và Trạm
bớt căng thẳng? Tôi làm như tình cờ nhìn họ, thấy họ bỏ tay khỏi
báng súng nhưng mắt Trạm vẫn còn ánh lửa thù hận. Bác sĩ! Bác sĩ! Cả hai người
đều gọi tôi, thế là tôi biết tình hình đã ổn. Tôi đến gặp họ, tôi chỉ nói:
“Việc đã như thế này thì chúng ta phải đoàn kết lại để tìm cách vào Sài Gòn,
trên Đảo có nhiều phần tử du thủ, du thực,giết người như chơi, hãy đoàn kết dò
chừng chúng và cứu lấy nhau!” họ nghe có lý. Không ngờ chuyện dễ “êm” như thế?
Đêm
đó chúng tôi nằm ở Đảo, nhìn qua thành phố Nha Trang, đây đó rực sáng, kể cả
Chợ Đầm bốc cháy. Từ phi trường vút lên những con chim sắt (Phi cơ) trốn chạy
về hướng Nam. Bốn giờ sáng chúng tôi thuê một chiếc cano 60.000đ (tương đương
với sáu triệu đồng bây giờ) lang thang trên biển tìm tàu di tản, may mắn thay
gặp tàu đón người di tản đậu xa bờ. Chúng tôi được cho lên tàu, chiếc tàu Hải
Vận Hạm 09 chở hàng ngàn dân di tản đưa chúng tôi vào Đảo An Thới Phú Quốc ngày
10-04-1975 sau 11 ngày lênh đênh trên biển. Sau 30-04-1975 Trạm đi học tập cải
tạo ở Miền Bắc; Quang thì được ra trại trước năm 1978, anh có dự đám cưới của
tôi tại Nha Trang; Tôi được biết hiện nay cả hai người đều định cư ô73 Mỹ, số phận của thiếu tá Đèo cùng
vợ gần ngày lâm bồn ở trên Đảo Tre và viên trung uý tài chính với chiếc áo ấm
chứa đầy tiền không hiểu ra sao?
02-09-2006
Cuối
cùng nhóm chúng tôi cũng lên được boong tàu Hải Vận Hạm 09, lên được boong tàu
bằng dây thừng thòng xuống biển không phải dể, nhất là anh Quang phải giúp vợ,
giúp đứa con trai 3 tuổi và con chó nhỏ, lên đến nơi ai cũng mệt lả. Tôi thì
khá hơn vì còn trẻ. Nhóm chúng tôi “chụm” lại một góc tàu, nhìn toàn cảnh trên
boong tàu: Vô số người di tản, người già trẻ con ngồi la liệt. Không hiểu tàu
vớt người từ các cảng nào ở rải rác miền Trung để neo trạm cuối tại biển Nha
Trang? Vớt tiếp những người còn rơi rớt trên biển, trong đó có nhóm chúng tôi?
Chúng tôi lên được boong tàu, sau 1 giờ thì tàu nhổ neo vào miền Nam. Trên tàu
có lẻ đã chứa hàng ngàn người. Nhóm chúng tôi chẳng ai nghĩ đến ăn uống, thôi
thì phó mặc cho tàu. Ra đi không ai đem theo gì để ăn uống cả! Tàu đi xa bờ,
trong 3 ngày đầu, chúng tôi không thấy đất liền, không thấy núi. Toàn biển,
biển, biển êm đềm “Tháng 3 bà già đi biển”. Vấn đề vệ sinh trên tàu thật gay
go, đàn ông chúng tôi thì dễ, nếu muốn “tè” thì cứ xả ra biển, bên mạn tàu, còn
vợ Quang? Chị cứ ngồi như thế chịu đựng, đứa bé thì sợ quên cả quấy rối, nó ôm
con chó đen không rời, con chó cũng sợ đến nỗi cứ rúc đầu vào đứa bé! Tôi không
biết vợ Quang “tè” bằng cách nào? Tôi cũng quên mất, lúc đó chúng tôi ăn uống
bằng gì? Có lẻ tàu có phát “gạo sấy” và ít nước ngọt cầm hơi?
Sáng
ngày thứ 3 có tiếng loa phóng thanh từ đài chỉ huy: “Yêu cầu các Bác sĩ Quân,
dân y tị nạn trên tàu đến đài chỉ huy gặp hạm trưởng để bàn kế hoạch giúp đỡ
dân tị nạn trên tàu, có nhiều người bị bệnh”. Loa kêu gọi nhiều lần, tôi cứ
phớt lờ, tôi cũng yếu rồi, ngồi một góc trên boong tàu dưới cái nắng như thiêu
đốt đã 2 ngày làm sao không yếu? Một lát sau loa phóng thanh lại dục dã gọi các
Bác sĩ Quân, dân y đến gặp hạm trưởng gấp! Tôi không phớt lờ được nữa, tôi nói
với Quang và Trạm “Tôi phải đến xem sao?” Tôi đi loạng choạng, dò từng bàn chân
để khỏi đạp vào vô số người nằm, ngồi trên boong tàu. Trên đường đi người đầu
tiên tôi gặp là Y Tá trung sỹ Ninh cùng gia đình, trước đây tôi và anh ta cùng
làm việc tại Quân Y Viện Nguyễn Huệ Nha Trang. Tôi rủ anh ta đi cùng tôi, theo
lời kêu gọi của đài chỉ huy. Anh nói “Ông thầy khoẻ thì cứ đi lo cho họ, tôi
không làm nổi”. Tôi ngao ngán quá, không nói gì thêm, đâu đó tôi thấy Bác Sĩ
Cương (cùng khóa với tôi), ông ta bắt gặp ánh mắt tôi cũng xoay chổ khác. Tôi
chẳng nghĩ ngợi gì nữa, cứ len từng bước đến đài chỉ huy: Tôi nói với viên sỹ
quan hải quân thường trực về lý do có mặt của tôi. Ông ta dẫn tôi xuống phòng
hạm trưởng: Căn phòng khá bề thế, hai hàng ghế đệm quanh chiếc bàn dài bóng
loáng, phòng họp chứa hàng chục chỗ ngồi. Ông hạm trưởng đang có mặt trong
phòng. Ông mang “lon” đại tá hải quân, Ông còn trẻ nhưng dáng bệ vệ, vẻ mặt
phúc hậu? Viên sỹ quan trực giới thiệu tôi với ông, ông chỉ ghế tôi ngồi gần
đó, lịch sự xin lỗi tôi đợi một chút. Ông đang nói chuyện với 3 quân nhân khác
cũng có mặt trong phòng họp; Hai trong 3 ông ấy mang “lon” đại tá bộ binh. Ông
nói với họ: “Tàu của chúng tôi đi trên biển đã hơn một tháng, chưa được vào đất
liền, lương thực sắp cạn mà phải chu cấp hàng ngàn người tị nạn nên không thể
giúp gì hơn cho các ông!” Ba ông sĩ quan xin xỏ gì đó tôi không nhớ và không
quan tâm vì việc tôi lên gặp ông hạm trưởng là “chẳng đặng đừng” do “loa” gọi
rát quá, tôi không thể không đến! Tôi thấy ông hạm trưởng gọi sỹ quan trợ lý
đem đến vài bao “Gạo sấy” đưa cho 3 vị sỹ quan cấp tá rồi tiễn họ. Công việc
chỉ thoáng chốc; Ông xoay qua tôi, ánh mắt đã dịu. Tôi tự giới thiệu về mình
một chút. Có lẻ ông thấy dáng đi xiêu vẹo lúc tôi bước vào phòng nên ông nói
với tôi: “Bác Sĩ phải tự cứu mình trước khi cứu người”. Thế rồi ông nhờ tôi
điều trị cho một bệnh nhân đặc biệt!. Chẳng có người tị nạn nào trên tàu bị
bệnh như “loa” kêu gọi cả! Ông gọi sỹ quan thường trực dẫn tôi xuống phòng quân
y ăn uống, lấy lại sức rồi dẫn tôi đến khám bệnh và điều trị cho “người bệnh
đặc biệt”. Họ đưa tôi vào một căn phòng sạch sẽ khoảng 3m*3m, trong phòng có một
giường chiếc trải ra trắng, có một người đàn bà khoảng 30 – 40 tuổi, vẻ mặt
xanh xao, nhăn nhó, có vẻ đau đớn, khó chịu? Bà ta đang được tiếp dịch truyền,
loại dịch DW 5% của quân đội Mỹ ! Tôi được viên sỹ quan đi theo giới thiệu bệnh
nhân là vợ Đại Úy Hiệp cơ khí trưởng của tàu (sau này tôi mới biết trên tàu cơ
khí trưởng là nhân vật quan trọng, chỉ sau hạm trưởng, mặc dầu cấp bậc sau các
hạm phó?). Tôi khám bệnh cho bà ấy: Tôi sợ nhất là bệnh nhân đau bụng, dù đơn
giản là viêm ruột thừa thì cũng không biết phải làm thế nào? Phòng y tế của tàu
chỉ xử lý những trường hợp đơn giản! Nhưng thật may là tôi khám kỹ bụng của bà
ta không có dấu hiệu gì phải can thiệp ngoại khoa! Huyết áp bệnh nhân hơi thấp,
buồn nôn nhiều lần, không ăn được nên cơ thể suy nhược. Bệnh nhân có vẻ say
sóng và dị ứng thứ gì đó? Tôi có đem theo mấy ống Hydrocortison, ít viên thuốc
an thần, thuốc kháng histamin và ít thuốc chống co thắt (spasmavérin), tôi sử
dụng thận trọng nhưng đủ liều…Vài giờ sau bà ấy đỡ hơn, sắc mặt “hồng” hơn, chuyền
hết chai DW 5% là bà ấy gần như khoẻ hẳn?
Từ
đó ông Đại tá hạm trưởng tín nhiệm và cảm tình với tôi, ông đề nghi tôi ở hẳn
phòng quân y. Tôi đến phòng quân y của tàu, phòng có 3 y tá, trong đó có một
ông y tá thượng sỹ già. Thời quân đội Sài Gòn thượng sỹ quân y là những người
có tay nghề khá, lăn lộn chiến trường lâu năm, có người có nhiều công trạng,
được cấp trên tín nhiệm. Ông thượng sỹ nhìn tôi qua ánh mắt thiếu thiện cảm và
khinh khỉnh! Thế nhưng lệnh của Hạm trưởng ông phải chấp hành. Tôi được ăn cơm
nấu chín, có cá, có nước trà uống! Thế nhưng ông y tá thượng sỹ già khó chịu
quá! Ông không ưa tôi ra mặt, không nói, không rằng nếu có nói gì đó thì ông
gọi tôi là “Trung úy” điều mà trong ngành quân y chế độ cũ người ta không gọi
như thế! Thường thì họ gọi “Ông thầy” hay “Bác Sĩ”, hồi đó cái trật tự thông
thường là như thế?! Đặc biệt ông thượng sỹ và 2 đàn em của ông không buồn nói
chuyện với tôi! Thế thì thôi vậy! Tôi cũng muốn trở lại cái góc boong tàu chịu
nắng gió, đói khát với gia đình Quang và Trạm.
Nhưng
một chuyện không ngờ lại đến: Ngày thứ hai tôi ở phòng quân y tàu, có một chị
từ Pleiku, không hiểu sao lưu lạc di tản trên con tàu này lại đến ngày sanh, họ
đưa chị vào phòng quân y khoảng 9 giờ sáng. Ông thượng sỹ già thì biết gì về
sản khoa, ông chỉ biết các vết thương chiến tranh sơ sài, các bệnh tật xoàng
xỉnh của các anh lính. Có bệnh khó thì đã được đem về bệnh viện hải quân hoặc
có tàu y tế? Ông thượng sỹ bối rối trước “Bà bầu” sắp đẻ! Mặt khác ông muốn thử
tôi? Sản phụ con so, tôi khám thấy chị khoẻ mạnh, thăm cổ tử cung thấy đã nở 6
phân, cơn go tốt, mạch, huyết áp tốt; Lý tưởng để chuẩn bị sanh; Lúc đó là 9
giờ sáng, tôi nói với ông thượng sỹ chuẩn bị dụng cụ: Tôi yêu cầu đơn giản chỉ
cần 2 cái kẹp, 1 cái kéo, 1 sợi chỉ, tôi nói “chỉ may áo quần cũng được!” và
nước sạch. Tôi nói thêm là khoảng 12 giờ trưa thì sanh! “Hay không bằng hên”:
Sau 3 giờ chờ đợi chị ta “đau bụng dục sanh”, tôi thăm dò âm đạo lần cuối; Cổ
tử cung đã xoá hoàn toàn. Đúng 12 giờ trưa ngày 2-4-1975 tôi đỡ cháu bé gái
chào đời, mẹ tròn con vuông. Tôi không
thấy mừng vì một mình tôi làm túi bụi: Cột rốn, cắt rốn, chốc ngược đứa bé vỗ
vỗ vào mông cho nó khóc “oe oe”, tắm rửa cho nó…nửa giờ sau tôi lấy nhau, may
quá, nhau đầy đủ, sản phụ mạnh khoẻ, nét mặt chị ta vui vẻ như ở nhà, tôi bế
đứa bé để nằm bên chị. Ông thượng sỹ già nhìn tôi khác hẳn, ông nói “Ông thầy”
giỏi quá! Nói 12 giờ sanh là đúng y chang! Tôi nói: “Có gì đâu, sanh đẻ là tự
nhiên mà, mình chỉ đỡ giúp đứa bé ra thôi”. Thế nhưng thái độ của ông thì khác
hẳn; Buổi chiều hôm đó ông cùng 2 đệ tử dùng cơm với tôi, ông còn gắp đồ ăn cho
tôi, nói cười vui vẻ! Tôi thấy hơi ngượng nhưng cố chịu. Tôi “gồng mình” xin
phép ông thượng sỹ cho tôi một ít cơm nóng, ít nước trà đem lên boong cho vợ
chồng Quang và Trạm. Họ vui mừng lắm; Đã hơn 3 ngày nay họ chỉ ăn ít “Gạo Sấy”
uống ít nước để sống cầm hơi! Tôi lại đem vợ Quang xuống “tè” dưới phòng quân y
tàu, sướng quá, mấy ngày nay vợ Quang “nín” tài thật! Quang và Trạm còn
nói giỡn: “Một người làm quan cả họ được
nhờ”; Nhưng chỉ là do vận may của tôi: “Chó ngáp phải ruồi”.
Gần
tối tôi lên phòng hạm trưởng báo với ông về công việc tại phòng quân y, đề nghị
ngày mai ông cố gắng xuống phòng quân y đặt tên cho cháu bé. Ông đồng ý. Sáng
hôm sau ông xuống thăm sản phụ và cháu bé duy nhất ra đời trên tàu của ông. Ông
đặt tên cho cháu là Đỗ Thị Cần Thơ, ông nói hải vận hạm 09 có tên khác là tàu
Cần Thơ.
Sau
đó tôi gặp ông nhiều lần, ông nói “Ông sẽ đề nghị với Bộ tư lệnh hải quân (chế
độ Nguyễn Thiệu) cấp cho tôi cái hải vụ bội tinh!”, lúc đó tôi chẳng thiết tha
gì! Tôi là một người lính “Bất đắc dĩ”, đi lính 3 năm nay chẳng có bằng khen,
giấy khen gì đâu?.
Tàu đi hơn một tuần trên biển, ông cho tôi biết không “cập” tàu đâu
được, ở đâu cũng từ chối, Vũng Tàu tràn ngập dân tị nạn; Sài Gòn không có chỗ
cho tàu vào, tình hình rất lộn xộn! Ông phải cho tàu ra Phú Quốc. Mười một ngày
lênh đênh trên biển tàu cũng đến được cảng An Thới Phú Quốc chiều ngày
10-4-1975. Hạm trưởng mời tôi lên phòng của ông để cho tôi biết đã đến lúc tất
cả người di tản trên tàu đều được đưa về trại tập trung, riêng tôi ông hỏi có
yêu cầu gì trong phạm vi có thể được ông đều giải quyết. Tôi xin ông gọi điện
cho bạn tôi là Bác Sĩ Lê Huy Thụy bệnh xá trưởng Phú Quốc, cho Thụy biết có tôi
trên tàu và nói với Thụy đón tôi tại cầu tàu. Tôi xin ông cho tôi đem theo một
người bạn là thiếu tá Trạm, anh ta quá yếu đuối, có nhiều bệnh tật, đi với tôi
để tôi giúp ông khỏi vào trại tập trung. Hạm trưởng đồng ý, ông bảo tôi về
phòng quân y chờ ông sắp xếp xong sẽ có “loa” mời. Vài phút sau trên loa có
tiếng: “Mời Bác Sĩ Tờn và ông bạn lên phòng hạm trưởng để sắp xếp vào đất
liền”. Thế là tôi và Trạm như trúng số, giả từ tàu, xuống ca nô vào cầu cảng, ở
đó đã có Bác sĩ Lê Huy Thụy đón chúng tôi bằng xe Jeep do anh lái. Chúng tôi
vào trạm xá khoảng 4 giờ chiều ngày 10-04-1975. Thụy dẫn chúng tôi đi thăm trạm
xá, rồi anh có điện phải lên bộ tư lệnh để nhận chỉ thị mới? Chúng tôi chờ Thụy
ở trạm xá, đến tối anh về đãi chúng tôi ăn phở ở quán Bò Vàng, anh nói với tôi:
Chế độ Nguyễn Văn Thiệu sắp xoá sổ. Tư lệnh đã sắp xếp để đoàn tùy tùng và Thụy
lên máy bay di tản sang Mỹ, anh nói anh đã xin Tư lệnh để tôi cùng đi, anh hỏi
tôi: Thế nào? Tôi không đồng ý. Tôi xin anh cho tôi một chiếc ca nô ngày mai
sang Dương Đông để mua vé máy bay về Sài Gòn. Hồi đó ở Phú Quốc chỉ có đảo
Dương Đông là có phi trường dân sự, phi trường rất đơn sơ, chỉ sử dụng cho phi
cơ loại nhỏ. Sáng 11 – 04 – 1975 tôi và Trạm dùng ca nô do Thụy sắp xếp qua đảo
Dương Đông mua vé máy bay về Sài Gòn. Về Sài Gòn Trạm đi đâu đó ở với người
thân, tôi thì “không đồng xu dính túi” tìm về tá túc tại nhà bạn thân là Kỹ sư
Huỳnh Thu Nguyên ở đường Võ Di Nguy (nay là đường Nguyễn Kiệm) quận Phú Nhuận.
Nguyên cưu mang tôi không thiếu thốn…
Sài
Gòn những ngày đó tôi ví như cái chảo khổng lồ trên biển lửa mà con người thì
cứ chạy lui chạy lại trong cái chảo càng ngày càng nóng. Tôi thì “bình thân như
vại”. Cứ chờ, cứ chờ, chờ cái gì?... Cho đến ngày 30 – 04 – 1975… Rồi tôi tiếp tục sống lây lất
đến tháng 6 năm 1975: chung một con tàu cùng các bạn vào trại học tập cải tạo.
04 – 09 – 2006
Tại
sao tôi quen người này? Bạn bè thân thiết với người nọ là một vấn đề khó hiểu? Nói rằng họ hợp với
mình cũng không đúng. Nói rằng họ có “duyên tiền định” với mình cũng không có
cơ sở! Thôi mọi thứ như thế, đành chịu không hiểu vậy! Tôi và Bác sĩ Nguyễn Tối
Thiện ở trong trường hợp đó. Anh và tôi cùng khoá ở trường Đại học Y Khoa Sài
Gòn. Hồi còn là sinh viên anh say mê công tác từ thiện, tích cực trong phong trào
đấu tranh của các “lãnh tụ” sinh viên. Anh luôn có mặt trong các hoạt động sinh
viên của các anh Huỳnh Tấn Mẫm, Hồ Hồng Phước… Anh là bạn thân cùng chí hướng
của họ. Tôi thì lo sinh kế để có cái ăn, cái mặc, tiếp tục con đường học tập ở trường Đại học.
Tôi cũng tham gia các phong trào sinh viên, nhưng chỉ như những người lính vô
danh. Trong thời gian chúng tôi ở trường Đại học, không hiểu sao Thiện lại thân
thiết với tôi mặc dù tôi với anh ở hai thái cực, hai cuộc đời khác nhau: Anh
sinh ra và trưởng thành trong một gia đình quý tộc Miền Nam. Ông thân sinh của
anh tốt nghiệp Đại học bên Tây từ những năm 30-40, lớn tuổi về hưu ở Việt Nam
không biết từ bao giờ? Tôi đến chơi nhà anh ở đường Phan Đình Phùng gặp cụ:
Dáng dấp của một trí thức nghỉ hưu một “Lão Trượng” đáng kính. Các anh của
Thiện đều cùng tên, chỉ khác chữ đệm, họ đều thành đạt ở bên Tây về Việt Nam
làm việc, tính cách của họ khiêm nhường mà không xu nịnh, có tài mà không kênh
kiệu! Anh cả của Thiện là anh Nguyễn Từ Thiện, kỹ sư xây dựng, tốt nghiệp ở
Pháp, về Việt Nam làm việc, đã làm đến chức Tổng giám đốc hàng không Việt Nam,
rồi làm Bộ trưởng bộ xây dựng thời Nguyễn Văn Thiệu nhưng anh rất bình thường,
giản dị. Sau giải phóng anh làm châm cứu trị bệnh từ thiện! Hiện nay không biết
anh còn hay mất? Anh Nguyễn Trạch Thiện bác sĩ có phòng mạch tư tại đường Cao
Thắng, sau giải phóng không hiểu vì lý do gì? Anh tự từ giã cuộc sống?
Trở
lại câu chuyện Bác sĩ Nguyễn Tối Thiện, người bạn “thân thiết” của tôi: Anh
cùng tôi gặp nhau tình cờ trong một trại học tập cải tạo ở Trảng Lớn Tây Ninh;
Lại một tình cờ nữa, anh và tôi cùng ở một A (một A gồm 10 người), ngủ một
giường. Trong một A được bố trí hai giường đối diện, mỗi giường ngủ 5 trại
viên, anh và tôi nằm sát nhau! Ở trại học tập cải tạo anh rất khổ sở, mọi sinh
hoạt, mọi hành vi cử chỉ, lời nói, anh thấy khó khăn. Anh sút hơn 10 kg trong
tháng đầu cải tạo, quần anh bận phải cột bằng sợi dây thay nịt… Anh có nhiều
thứ để lo âu, lúc đó anh đã có vợ và hai đứa con: Một trai, một gái. Tôi thì
ngược lại, tôi thấy dễ chịu trong trại học tập cải tạo?! Tôi chẳng có gì để
mất, để lo…Thế nên vài tháng đầu tôi lên cân đến 2-3kg; Những buổi lao động đào
ao rau muống, làm đất gieo rau muống hột, những buổi đi đào vĩ sắt tại phi
trường gần đó vác về để xây dựng hội trường. Tôi thấy như vậy thật dễ chịu,
tinh thần sảng khoái, tối về ngủ thật ngon. Sinh hoạt của trại viên đã có
chương trình sẵn: Sáng lao động chiều mỗi A thảo luận chính trị tại “nhà”, đề
cương do quản giáo đem xuống. Thảo luận hoài các vấn đề chính trị xã hội chủ
nghĩa, đường lối chính sách của chính phủ, soi rọi đối chiếu tội lỗi của mỗi cá
nhân đang “được” cải tạo: Điều đó làm cho các trại viên thật khổ sở. Tôi thấy như thế nên đứng ra nhận trách
nhiệm ngồi ở cửa trại của A canh chừng quản giáo xuống kiểm tra. Nếu không có
quản giáo thì anh em cứ nói chuyện “bá láp” cho vui. Anh Đại uý Mỹ trại viên, A
trưởng làm việc ở phủ tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thì nói chuyện “tào lao” đủ
thứ trong dinh, kể cả chuyện trong “cung cấm”. Các anh khác, sĩ quan chiến
tranh chính trị thì nói những chuyện vô bổ, chẳng có gì là “chính trị”, các sĩ
quan pháo binh thì nói chuyện “pháo” vào chỗ trống… Nói tóm lại chẳng thấy ai
là ác ôn nhưng cũng tìm được vô số tôi ác tưởng tượng…Vì A của chúng tôi là
những chàng trai trẻ tuổi, sĩ quan bất đắc dĩ (họ có gốc là thầy giáo, một số
khác thì thi Đại học không đậu phải đi sĩ quan Thủ Đức…Chức vụ trong A cao nhất
là đại uý… Còn tôi và Bác sĩ Thiện
là loại sĩ quan chưa biết và chưa hề bắn một phát súng vào ai!)
Trở
lại việc học chính trị buổi chiều: Tôi ngồi ngoài cùng, sát cửa, có nhiệm vụ
báo động mỗi khi ông quản giáo xuống kiểm tra (ông ấy đi từng A xem học viên
sinh hoạt chính trị ra sao?). Nếu ông ấy xuống A thì tất cả học viên phải
nghiêm túc, tôi phải mở máy nói; Tôi thao thao bất tuyệt đường lối chính sách
của Đảng và chính phủ, sự khoan hồng đối với nguỵ quân nguỵ quyền, tôi tự đối
chiếu tội lỗi của tôi (tôi không dại gì tưởng tượng ra tội lỗi của mình, không
dại gì phịa ra cái tội lỗi không có) còn nói về tội lỗi của tôi thì vô số kể…
Khám bệnh cho vợ con binh sĩ chế độ cũ để chúng chống đối cách mạng cũng đủ
“tội chết”. Thiếu gì tội, sống là có tội rồi! Tôi nói chuyện này đến chuyện
khác, tôi nói một cách rất giáo điều kể cả lý luận Mac – LêNin, sự thối nát của
chế độ tư bản. Sở dĩ tôi nói được chuyện này ra chuyện khác một cách hợp lí như
thế là vì từ 30-04-1975 đến tháng 06-1975 là thời gian tôi quá rảnh rỗi, không
làm gì nên tôi mua một bộ sách trung cấp kinh tế chính trị xã hội chủ nghĩa đọc
đi đọc lại nhiều lần, lúc đó tôi còn trẻ, dễ nhớ và nhớ lâu! Anh quản giáo là
anh trung uý Lượng, người miền Bắc, cũng ngồi nghe tôi nói, có vẻ thiện cảm với
A của chúng tôi và đặc biệt là thiện cảm với tôi; Ở A chúng tôi ông ngồi hơi
lâu nhưng cũng phải đi kiểm tra các A khác. Ông đi khỏi A, chúng tôi nhẹ hẵn,
lại những chuyện tầm phào vô bổ, rồi thời gian của buổi chiều qua thật nhanh! …
Sau
2 tháng học tập cải tạo tất cả các trại viên được phát một bì thơ, một cây bút
bi, một tờ giấy để viết thơ gửi về nhà. Ai cũng “hồ hởi phấn khởi”. Riêng tôi
không sử dụng những thứ đó. Ông quản giáo hỏi lý do? Tôi nói tôi không có ai để
viết thư. Thực sự là như thế! Tôi chỉ có một người anh ruột là Trung tá Nguyễn
Tấn Khôi cũng đang học tập cải tạo, không biết trại nào và bao giờ trở về? Bà
chị dâu của tôi thì không biết chữ, hơn nữa đối với bà ấy tôi chẳng có gì để
nói: Từ trước tôi và bà ấy như những người khác hành tinh, không hiểu tiếng nói
của nhau! Bạn bè cũng đang học tập cải tạo? Ai ở trường Đại học ra mà không đi
lính làm sĩ quan? Tôi nói với anh quản giáo như thế nhưng anh động viên tôi cứ
viết cho chị dâu, tôi cũng đành viết ít chữ cho xong chuyện!
Những
ngày đầu trong trại học tập cải tạo các anh em đều đinh ninh chỉ đi cải tạo một
tháng, theo thông báo của ban quân quản thành phố là đem theo tiền ăn đủ một
tháng nên ai cũng chỉ mong cho hết tháng. Sắp hết tháng thứ nhất, gạo cũng hết
thì xe chở gạo, bí đỏ, (thức ăn làm chuẩn) đổ đến… Mọi người rất thất vọng, ai
cũng trầm tư buồn bã, rồi mỗi người bàn mỗi cách, ai cũng làm “thầy bàn” hy
vọng tháng sau ra trại. Cứ thế tháng
thứ hai, tháng thứ ba, tháng thứ tư… Gạo hết lại có gạo mới đến, bí đỏ hết thì
bí mới lại đến. “Thầy bàn” cũng bỏ nghề chịu trận. Khi đó họ mới thấy ngày về
vô định. Những con ểnh ương, cóc nhái, cũng đã im tiếng hát, rắn độc, thằn lằn,
rắn mối cũng hiếm dần. Trong hai ba tháng đầu các trại viên đã tranh thủ cải
thiện bữa ăn bằng cách “tận diệt” chúng, nướng ăn tại chỗ. May mắn là tôi chưa
hề đụng đến những thứ đó, tôi không thấy đói, tôi đã quen chịu đói thời sinh
viên! Ai cũng mong ngày ra trại, nhưng riêng tôi “ở trong đó” hay “về” chẳng
khác gì nhau! Ở trại nhiều khi lại ổn định: Có “công ăn việc làm”, có cơm ăn!
Về Sài Gòn để làm gì? Ăn - ở đâu? Tôi không hề nghĩ có ngày lại làm việc trong
ngành y tế! Hết rồi trang sách của cuộc đời. Đã qua trang mới! Thế nhưng… Thật
bất ngờ: Chưa đến 4 tháng tôi được gọi tên có giấy trả về địa phương sinh sống
làm ăn, trong A của tôi chỉ có 2 người cùng về đợt đó là tôi và Bác sĩ Nguyễn
Tối Thiện.
Tôi
và Thiện trở thành những người đầu tiên ra trại; Các bạn thấy chúng tôi được
“thả” có người “khóc”, dĩ nhiên là ai cũng ao ước như chúng tôi: Chúng tôi chỉ
học tập cải tạo từ tháng 06/1975 đến 26/10/1975 là được trả tự do, không “mất quyền công dân!” Được thả về đợt đầu có vài
người trong một A, tổng cộng cũng hàng trăm. Chúng tôi được đem về trại trung
chuyển ở Dĩ An trong vài ngày để “tẩy trần”! Và mỗi trại viên viết thơ về gia
đình gọi người thân đến trại bảo lãnh chúng tôi với nội dung cam kết đem chúng
tôi về gia đình “giáo dục” để trở thành người hữu ích trong xã hội. Lại một rắc
rối cho tôi: Ai bảo lãnh tôi? Viết thơ cho ai? Tôi chẳng có ai cả! Suy nghĩ mãi
rồi cũng nghĩ ra: Có đứa cháu con anh tôi là Nguyễn Tấn Đạt 20 tuổi, ở đường
Phan Đình Phùng… Thôi thì cứ viết giấy cho nó lên bảo lãnh cho tôi về để “giáo
dục”! May quá nó vẫn còn ở nhà cũ, nó lên làm tờ cam kết viết sẵn và thế là tôi
lại được trở lại Sài Gòn thân yêu của tôi “Sài gòn đẹp lắm Sài Gòn ơi, Sài Gòn
ơi”. Nhưng tôi biết ăn đâu, ở đâu? Làm gì để kiếm sống? Với tôi bán chợ trời
đâu dễ. Sài Gòn lúc đó không còn như trước năm 1975 không còn những ngày thơ
mộng thời sinh viên! Cuối cùng tôi cũng được tạm trú tại nhà anh bạn thân, Kỹ
sư công nghệ Huỳnh Thu Nguyên, anh cưu mang tôi gần nữa năm sau. Cuối năm 1975
tôi đi kinh tế mới theo chính sách của chính phủ và được ổn định… Tiếp đó có
gia đình, vợ con và sống cho đến ngày nay!
Về
người bạn thân yêu hiền hậu và tốt bụng của tôi là Bác sĩ Nguyễn Tối Thiện: Tôi
không quên được một câu chuyện nhỏ của anh: Hai ngày ở trạm trung chuyển Dĩ an
để về với gia đình, anh vui vẻ lạ, lạc quan quá mức về cuộc sống mới; Anh vẻ ra
vô số công việc: Trước mắt anh là một cuộc đời hồng, vàng son! Tại trại trung
chuyển có một cuộc nói chuyện do cán bộ quân đội tổ chức: Trong cuộc nói chuyện
ấy nội dung có hai phần: Phần một nhắn nhủ trại viên về địa phương chăm lo lao
động theo chính sách của chính phủ… (Vì chúng tôi là thành phần hộc tập tốt lao
động tốt, có tiến bộ được chính phủ khoan hồng trả tự do sớm); Phần hai của
buổi nói chuyện là các trại viên có quyền được phát biểu và đề đạt nguyện vọng?
Có vài người phát biểu ý kiến, nhưng tôi chẳng thấy có gì để nhớ! Đặc biệt bạn
tôi, Bác sĩ Nguyễn Tối Thiện (có vẻ vì đang hưng phấn, thăng hoa) xin lên phát
biểu, anh ngồi gần tôi . Tôi giật mình níu anh lại nhưng không kịp. Tôi nghỉ
anh sẽ nói cái gì đó không hợp lúc, không hợp thời… Quả vậy! Anh xăm xăm lên
diễn đàn, anh nói: “Xin hỏi cán bộ, tôi có hai đứa con một gái, một trai; Trong
chế độ mới nên cho con trai học nghề gì? Con gái học nghề gì?” Tôi chết lặng,
thương anh quá, tôi biết là có chuyện không ổn. Cán bộ trả lời là ông thiếu tá
quân đội, có vẻ khó chịu, ông nói: “Các anh đã học tập cải tạo được chính phủ
khoan hồng cho về mà vẫn không có tiến bộ…” Ông nói tiếp: “Trong xã hội mới thì
việc gì cũng tốt “lao động là vinh quang”, người làm vệ sinh đường phố cũng có
giá trị như một trí thức văn phòng, ai làm việc gì là do khả năng và sự phân
công của xã hội, miễn sao làm tốt công việc”. Lúc đó tôi cũng nghĩ như ông, ông
cán bộ nói đúng quá, đó là một sự thực mãi mãi… Mặc dù bây giờ người ta vẫn có
những hội thảo về vấn đề Bác sĩ Nguyễn Tối Thiện đưa ra. Giá như anh đưa vấn đề
đó vào lúc này thì là một chuyện thông thường, nhưng lúc đó, lúc đó thì khác
hẳn. Anh buồn bã đi xuống ngồi gần tôi, tôi thì đang suy nghĩ lẫm bẫm cái gì
đó! Anh về gia đình một thời gian ngắn thì xung phong đi làm công tác từ thiện
xã hội: Anh châm cứu điều trị tại Trung tâm Cai nghiện Ma tuý ở Bình Triệu. Sau
đó không lâu anh bỏ việc đi định cư ở Pháp theo đúng chính sách của chính phủ.
Qua Pháp anh làm Bác sĩ tại một bệnh viện ở thành phố Paris, có phòng mạch tư
châm cứu tại quận 20, rất được uy tín. Thỉnh thoảng anh có viết thư thăm tôi và
cho ít quà, sách y học. Mấy năm trước anh về Sài Gòn không ghé thăm tôi nhưng
có điện thoại cho tôi. Có lẻ do sự hiểu lầm nào đó anh nói tôi bây giờ là một
“Tư Sản Đỏ”. Cũng chẳng sao! Thực chất hằng ngày cố gắng lắm tôi chỉ mong đủ
cơm ăn, đủ nuôi ba đứa con tôi ăn học… Và đã được như thế. Hiện tại hai con tôi
đã có công ăn việc làm, tạm sống được. Gia đình tôi hạnh phúc là được sống ở
đất nước mình, có cơm ăn áo mặc, con cái được học hành, như mọi người lao động
siêng năng khác. Tôi có tài gì đâu mà làm được “Tư Sản Đỏ” ăn sung mặc sướng
hơn mọi người? Cố gắng lắm và nhờ người vợ đảm đang nên hiện nay gia đình tôi
có nơi ăn chốn ở tươm tất! Trong khi nhiều người thân yêu của chúng ta còn quá
khó khăn. Tôi luôn tâm niệm. Tôi phải siêng năng làm vịêc và tiết kiệm, tiết
kiệm để đủ ăn và tiết kiệm là ĐẠO ĐỨC
Ngày 23-08-2006
Sau
khi học tập cải tạo về thành phố; Tôi đến ban quân quản y tế Miền Nam xin đi
làm việc. Tôi viết giấy cam đoan “Đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì do ngành y
tế xã hội chủ nghĩa phân công”.
Đầu
năm 1976 tôi được tập huấn một khoá học về đường lối, chính sách về ngành y tế
của chính phủ. Tôi được tiểu ban y tế kinh tế mới Miền Đông Nam Bộ phân công về
xã Tân Khai huyện Bình Long xây dựng trạm xá xã điểm. Cùng đi với tôi có hai
chị nữ hộ sinh quốc gia (Chế độ Sài Gòn) vừa ra trường. Lúc đó tôi đã 33 tuổi;
Hai chị nữ hộ sinh là chị Nhỏ 25 tuổi và chị Tâm 23 tuổi. Mặc dù mỗi người có
những lo âu trăn trở riêng nhưng đồng chí hướng là nhiệt tâm làm việc với tối
đa khả năng của mình.
Lúc
đó trạm xá xã tân Khai nằm bên vệ đường quốc lộ 13 trong khuôn viên đất rộng
một mẫu tây. Trạm xá được xây theo hình chữ U gián đoạn; Dãy nhà trước trông ra
quốc lộ gồm ba phòng, một phòng để khám
sản phụ khoa và đỡ đẻ, một phòng để khám và chữa bệnh, một phòng để thuốc men và dụng cụ y khoa. Dãy nhà
của nhân viên cũng gồm 3 phòng cắt góc vuông nối liền với phòng để thuốc men;
Dãy cuối tách rời với dãy nhà nhân viên bằng một khoảng đất trống, có một giếng
nước khá sâu khoảng 8 mét đến 10 mét, vách giếng là đất sét lở lói, giếng không
có thành, nước màu vàng nhờ nhợ; Dãy nhà cuối cùng để không. Tất cả ba dãy nhà
đều được xây dựng bằng tre, tầm vong, mái lợp tranh, mỗi dãy ba phòng được che tách nhau bằng phen tre.
Trong ba phòng cho nhân viên ở chỉ có phòng giữa là có một cửa sổ và một cửa ra
vào, còn hai phòng kế bên mỗi phòng có hai cửa ra vào đối diện. Các cửa phòng
nhìn ra khoảng đất rộng mênh mông, tất cả các cửa đều không có cánh cửa đóng
mở.
Tôi
nói với hai chị là tôi ở một trong hai căn trống trải nhất, còn hai chị ở căn
giữa, vì tất cả chúng tôi đều độc thân! Hai chị không đồng ý và muốn tôi cùng ở
phòng giữa để “đỡ sợ!”. Tôi vốn là người “sợ ma” nên đồng ý cùng ở chung trong
căn nhà 3m x 5m = 15m2. Chúng tôi dùng bạt ni-lon
dày, màu xanh, do hội chữ thập đỏ cấp để che chắn phòng ở, phòng được kê 3
giường gỗ tạp, loại giường 1m x 2m. Giường ngủ của tôi đặt phía trước sát cửa
ra vào; Hai giường của hai chị nữ hộ sinh đặt song song phía trong, giữa hai
giường là cửa sổ. Từ cửa sổ nhìn ra là khu đất trống đầy cỏ dại trên đó có một
cái giếng xi măng đã lấp đất đá gần đầy. Người ta nói dưới giếng đó là xác của
cả một gia đình chết do bom đạn chiến tranh trước đây vài năm.
Đầu năm 1976 xã kinh tế mới Tân Khai
khá đông dân, hàng ngàn nhân khẩu. Dân đi kinh tế mới xã Tân khai đa số là dân
thành phố; Xã lại được xây dựng ven quốc lộ 13, tiện việc giao thông buôn bán.
Hằng
ngày chúng tôi khám, chữa bệnh phát thuốc hàng trăm bệnh nhân; Tất cả đều miễn
phí, nguồn thuốc phong phú, khá nhiều loại; Đặc biệt là các thuốc điều trị sốt
rét, thuốc trị rắn cắn đặc hiệu và giá trị. Dịch truyền cũng dồi dào, có cả
Moriamin của Nhật, có cả sửa bột viện trợ, mỗi thùng 9 kg. Tôi phân công hai
chị nữ hộ sinh lần lượt đi xuống các nhà dân thống kê cơ bản bệnh tật và đặc
biệt thống kê chi tiết số sản phụ trong xã. Các chị rất tích cực chỉ trong hai
tháng chúng tôi đã có đầy đủ tình hình sức khoẻ và số sản phụ toàn xã một cách
chính xác. Các sản phụ được khám bệnh và đỡ đẻ bất kể ngày đêm. Chúng tôi
thường trực 24/24 giờ đúng nghĩa. Tôi không phải thầy thuốc sản phụ nhưng bất cứ
“ca” đẻ nào cũng phải có sự hiện diện của tôi. Trong một thời gian dài tất cả,
tất cả đều tốt đẹp, thật sự tốt đẹp, không có “ca” bệnh nào tử vong. Chúng tôi
xử lý cả những “ca” khó như sốt rét ác tính hôn mê, rắn độc cắn, hen phế quản
ác tính và các vết thương do lao động (Không cần mổ xẻ lớn). Về sản khoa những
“ca” tương đối khó cũng được xử lý tại chỗ như chảy máu sau sanh: Dùng thuốc và
kiên trì dùng tay xoa bóp tăng co tử cung, truyền dịch… Trường hợp sót nhau thì
hai chị lấy nhau bằng tay, đỡ đẻ các trường hợp thai chết lưu, thai sanh non…
Hai chị đều làm tốt. Do khả năng, do cần cù 3 năm được học tập ở trường nữ hộ
sinh quốc gia tại bệnh viện phụ sản Từ Dũ! Chúng tôi sợ nhất là những đêm tối
trời mưa gió có sản phụ đến đẻ; Chúng tôi phải đi kéo nước dưới giếng sâu dùng
cho việc đỡ đẻ!
Công
việc hàng ngày cứ thế tiếp diễn. Chiều chiều từ 5 đến 6 giờ chúng tôi nghỉ
ngơi, nhưng vẫn phải thường trực bệnh cấp cứu, sản phụ sanh đẻ… Chúng tôi
thường ngủ sớm 7 giờ - 8 giờ tối. Dầu hoả ưu tiên dùng ban đêm, khi có bệnh cấp
cứu hoặc đỡ đẻ.
Thỉnh
thoảng hai chị nữ hộ sinh nói với tôi là đêm có nghe người kêu cửa báo có sản
phụ đến trạm xá để đẻ, các chị ra mở cửa thì không có ai! Ra dãy nhà khám chữa
bệnh cũng không có ai. Tôi trấn an họ là do bị ám ảnh nghề nghiệp, nhưng thực
sự tôi cũng thấy “sợ”.
Một
buổi chiều như mọi buổi chiều khoảng 5 giờ; Chúng tôi chụm lại ngồi uống nước
bên cửa sổ, nói đủ chuyện vui buồn gia đình, hoàn cảnh từng người, giai đoạn êm
đềm ở trường Đại học… Buổi chiều đó trời thật êm, không một ngọn gió, tĩnh lặng
và thanh bình một cách khác thường! Ba đứa chúng tôi đều nhìn qua cửa sổ (cửa
sổ này chỉ che lại khi đi ngủ). Chiếc áo của chị Nhỏ phơi từ sáng gần cửa sổ,
chưa đem vào vì quá sớm tự nhiên nhảy múa trượt qua trượt lại trên sợi dây
phơi. Chúng tôi ba người đều thấy hiện tượng lạ lùng đó cách một cánh tay với.
Hai chị hốt hoảng nói: Kỳ quá, cái gì kỳ quá?! Tôi cũng đã “sợ” xanh mặt. Vốn
dĩ tôi là người sợ “Ma” nhưng cố trấn tỉnh (lại trấn tỉnh). Vì tôi là đàn ông
lại lớn tuổi. Tôi nói với hai chị là: “Không có gì đâu, do chuột chạy”, mặc dù
ba người đều biết làm gì có chuột chạy. Chúng tôi đều nhìn rõ hai đầu dây mắc
áo và sợi dây trống trơ, chỉ có chiếc áo
nhảy múa! Trời thì không một gợn gió. Ba chúng tôi đều cùng đi ra tóm chiếc áo
vào! Không ai nói gì cả, cửa sổ được che lại, chèn thêm mấy cây que, không dùng
cửa sổ trông ra cái giếng có mấy hài cốt và khu đất cỏ dại. Tối đó ba chúng tôi
ngủ rất sớm, không một tiếng nói như mọi khi. Tôi thì thức trắng đêm! Có lẻ hai
người bạn tôi cũng thế?
Cuộc
sống vẫn tiếp diễn như mấy tháng qua; Rồi sau đó không lâu cấp trên tăng cường
thêm một tổ Đông y từ Miền Bắc vào; Tôi thì được điều về tỉnh làm công tác khám
tuyển nghĩa vụ quân sự cho đợt tuyển quân tình nguyện cho chiến trường K(1976);
Chị Nhỏ thì được điều về ban kinh tế mới tỉnh, vài tháng sau được điều đi tăng
cường công tác ở Kampuchia. Chị công tác được vài năm thì nghỉ việc về Sài Gòn
lập gia đình, hiện nay sống cùng con, cháu thường xuyên đi chùa lễ phật; Chị
Tâm tiếp tục công tác tại trạm y tế xã Tân Khai với nhiệm vụ trưởng trạm y tế
và là hội đồng nhân dân xã trong 2 năm 1976-1978. Sau này chị và tôi thành lập
gia đình, hai đứa cùng công tác tại bệnh viện tỉnh, có 3 đứa con; làm việc tại
bệnh viện tỉnh gần 15 năm chúng tôi đều xin nghỉ mất sức, cuộc sống hạnh phúc
sau bao năm vất vả.
Cho
đến nay chuyện đã xảy ra hơn 30 năm nhưng mỗi lần nhớ đến thời trẻ, làm việc
tại trạm y tế xã Tân Khai chúng tôi không quên được những ngày hạnh phúc trong
công việc và tự hỏi: “TRẠM XÁ XÃ TÂN
KHAI HỒI ĐÓ THỰC SỰ CÓ MA HAY KHÔNG?”
Ngày 31 tháng 07 năm 2006
Cuối
năm 1977 tôi được ông Vũ Tánh, giám đốc bệnh viện tỉnh nhận vào làm việc tại
bệnh viện. Bệnh viện có 500 giường bệnh; Tôi trực tiếp điều trị ba dãy nhà bệnh
nhân khoa nội nhân dân. Ba dãy nhà ngang mang phiên hiệu là A5, A6, A7; Mỗi dãy
kê 30 giường bệnh. Thời đó ít có thầy thuốc nên hằng ngày một mình tôi thường
phải khám và điều trị bệnh nhân cả 3 dãy nhà gần 100 bệnh nhân, thỉnh thoảng
mới có bác sĩ tăng cường! Tôi chú ý đặc biệt dãy nhà A5 dành cho bệnh nhân Nữ;
Hai dãy nhà A6 và A7 tiếp nhận bệnh nhân Nam. Hồi đó chưa tổ chức chuyên khoa
nên các bác sĩ đa khoa phải khám và điều trị tất cả các loại bệnh Nội trừ bệnh
Ngoại, Sản và Nhi khoa.
Tại
A5 có một bệnh nhân khoảng 35 tuổi trông rất già, được nhập viện với chẩn đoán
của phòng khám: Đau bụng chưa rõ nguyên nhân. Tôi khám và điều trị hàng ngày
cùng với chẩn đoán đơn giản như thế, chỉ thêm một chi tiết sau xét nghiệm cơ
bản là: Suy nhược cơ thể, thiếu máu, đau bụng do giun móc. Điều trị hơn một
tuần với các loại thuốc hồi đó kể cả tẩy giun móc bằng vermox, sinh tố trị
liệu, dịch truyền thì dùng các loại tự chế ở bệnh viện! Bệnh không giảm, có
chiều hướng nặng hơn. Tôi xin hội chẩn liên khoa cũng không có gì mới, cũng
chẩn đoán cũ. Tôi lo lắng, xin ý kiến của ông Giám đốc, ông trực tiếp khám và
xem lại cách điều trị của tôi, ông không có gì than phiền. Ông bảo tôi phải mời
hội chẩn lại, chú ý ý kiến của các vị thầy thuốc ngoại khoa, cũng không ai tìm
thấy gì lạ trong ổ bụng của bệnh nhân. Tóm lại một “ca” bệnh suy nhược, thiếu
máu, đau bụng do giun móc. Khám bệnh hàng ngày cũng chỉ thấy bệnh nhân đau nhẹ
vùng hạ vị, bụng mềm xẹp; Về sản phụ khoa: Không trễ kinh, không rong kinh,
khám bụng không thấy u, cục, các bộ phận khác như tim phổi, tiêu hoá, tuần
hoàn, hô hấp… đều bình thường. Cứ như thế bệnh nhân ngày càng yếu, xanh xao.
Tôi đặc biệt chú ý và lo lắng, khám bệnh sáng, chiều tái khám, điều trị đủ cách
nhưng đã hơn nửa tháng bệnh không chuyển, ngày càng yếu. Tôi lại xin ý kiến
Giám đốc, lại hội chẩn liên khoa, hội chẩn toàn viện! Nhiều lần như thế , có
khoảng 7 đến 10 lần hội chẩn. Qua tuần lễ thứ 4, buổi chiều bệnh nhân tử vong,
xác được để tại nhà vĩnh biệt (nhà xác). Năm giờ chiều hôm đó tôi chuẩn bị về
nhà trọ thì ông Giám đốc xuống gặp tôi, ông bảo tôi ở lại bệnh viện đến 8 giờ
tối làm việc với ông. Tôi lo lắng, đi ăn qua loa cái gì đó chờ đến 8 giờ tối.
Trời mưa dầm, mưa có vẻ lâu tạnh. Đúng 8 giờ tối tôi vào phòng trực A5 thì đã
có ông Giám đốc ở đó. Ông bảo tôi và ông xuống nhà xác mổ bụng bệnh nhân tử
vong để tìm nguyên nhân? Ông nói có cái gì trong ổ bụng bệnh nhân? Tôi hơi sợ,
tôi là thầy thuốc nội khoa có bệnh run tay từ nhỏ nên vấn đề mổ xẻ, kể cả mổ
xác chết đối với tôi cũng là chuyện khó, nhưng tôi phải vượt sự lo sợ đó đi với
ông Giám đốc (đến đâu thì đến!). Ông Chước người giữ nhà xác được gọi vào mở
cửa bật đèn nhà xác. Ánh sáng nhờ nhờ vì hồi đó điện 110volt thường không đủ
hiệu thế. Nhà xác được xây dựng cùng thời với bệnh viện thời Pháp thuộc đến nay
đã hơn 100 năm, cũ kĩ bẩn thỉu nhưng bố trí khá hợp lí. Nhà xác là một căn nhà
nhỏ chỉ có 4mx6m , nằm cuối bệnh viện, được tách rời các khoa phòng, có đường
đi ra con hẽm bằng đất đỏ bên hông bệnh viện, ưu tiên cho việc đem xác ra khỏi
bệnh viện. Không hiểu sao ban ngày khi rảnh rỗi tôi thích xuống xem nhà xác và
các xác chết nằm trong đó? Nhà xác có bàn thờ nhỏ xây xi măng, cũng có lư hương
và nhang đèn để sẵn, đặc biệt là trên những bức tường nhà xác có nhiều bức
tranh màu đen vẽ những con chim cú, con rùa, những hình người khô đét, cong
queo, những thân cây thật lạ, tất cả đều màu đen, sơn đen, trông thật ma quái.
Tôi vô cùng say mê những bức tranh ấy, những bức tranh của ông Chước vẽ, người
cả một đời giữ nhà xác bệnh viện, đối với tôi chỉ có ông mới có những tuyệt tác
hội hoạ như thế. Ông là người ít học, cao lêu nghêu, 10 bàn tay của ông lở loét
do bệnh phong, thường vê thuốc rê thấm
nước bọt gói giấy quyến mời tôi cùng hút thuốc. Sau này ông về hưu ở đối diện
nhà tôi. Một buổi sáng ông chết êm đềm, vợ ông là chị ba hộ lý qua kêu tôi xác
nhận ông đã chết!
Lời
ông Giám đốc bảo ông Chước mở tấm khăn che mặt, cởi bỏ áo quần người chết để
chúng tôi mổ bụng làm cho tôi trở về thực tế. Ông Giám đốc nhìn tôi, biết là có
khó khăn cho tôi mổ bụng xác chết, như vậy tôi chỉ là người đi theo phụ việc!
Lúc này trong nhà xác chỉ có hai tử thi nằm song song. Ông rạch bụng tử thi vừa
chết chiều nay. Ồ… Máu, toàn máu, chảy lai láng trên cái bụng lép kẹp của tử
thi, máu chảy tràn ra cả bàn đá đặt tử thi, chảy xuống sàn gạch bông cũ kĩ, bẩn
thỉu. Ông Chước lấy mấy nùi giẻ thấm bớt máu, tôi cũng làm thế, tôi lau sạch
máu trên thân tử thi, tôi lau máu bàn đá tử thi nằm. Có lẻ 1-2 lít máu tràn ra
từ bụng tử thi nhưng trông thật khiếp! Ông giám đốc đưa tay sâu vào ổ bụng tử
thi mò tìm… Ồ, một hài nhi đủ cả hình
người, đầu mình tay chân mặt mũi, hài nhi khá lớn khoảng 3-4 tháng tuổi?
Đây
rồi, sự thật đây rồi, ông giám đốc như hài lòng. Ông bảo ông Chước lấy hủ thủy
tinh có formol ngâm hài nhi đem lên hội trường. Ông tự tay đóng bụng bệnh nhân.
Tôi thật xấu hổ vì không giúp gì cho ông. Mười giờ tối mới xong công việc, tôi
chào ông giám đốc xin về với đôi dép lào thấm máu, toàn thân hăng hắc một mùi
máu tươi của bệnh nhân vừa mới chết, nặng nề, u uất một nổi buồn vô hạn, sự kém
cỏi của mình trong quá nhiều vấn đề. Tôi về đâu? Sự cô đơn và sợ hải! Tôi ở một
mình trong căn nhà thuê, thuộc khu nhà làng chiêu hồi ở Phú Lợi thời chế độ cũ,
nhà nhỏ nhưng đất chung quanh rộng có nhiều cây điều, cây mít. Trời lác đác mưa
nhưng tôi cứ đội mưa về đó. Về đến cổng, trời tối như mực, mưa vẫn rơi. Đã gần
11 giờ đêm, tôi gồng mình đi vào cửa, không biết sao tôi hốt hoảng, loạng
choạng va đầu vào gốc mít mọc nghiêng, đau quá! Vào đến nhà mùi máu tanh quá,
khó chịu quá. Tôi phải đi tắm, đi qua một căn nhà bỏ hoang mới có giếng nước,
trời thì mưa, lạnh kinh khủng, 12 giờ đêm tôi vào giường ngủ. Sau những việc
xảy ra tôi sợ quá, sợ quá!... Trên bàn kê đầu giường ngủ của tôi có một bóng
đèn tròn, điện được anh Tư Lên cán bộ sở nông nghiệp cho sử dụng, nhà anh cách
nhà tôi một khuôn đất cây cối um tùm. Tôi gắn chốt điện của bóng đèn vào ổ điện
lỏng lẻo. Tôi mất bình tỉnh vì sợ “Ma”, tôi thật vụng về… Tôi bị điện giật rơi
từ trên giường xuống đất, điện vẫn không đỏ, tôi lấy mền che kín mặt chịu đựng
như thế suốt đêm. Trời hừng sáng, sướng quá tôi bật dậy ra đi thật sớm, uống
một ly cà phê sáng chờ giờ vào giao ban bệnh viện.
Bảy
giờ hôm đó có đủ bác sĩ các khoa - phòng, các bác sĩ trực đêm. Trên bàn giao
ban là chiếc bình thuỷ tinh đựng hài nhi ngâm formol. Sau buổi giao ban thường
lệ ông Giám đốc thông báo kết quả mổ tử thi trường hợp bệnh nhân khá quen thuộc
đã được nhiều bác sĩ khám, đã được hội chẩn nhiều lần không chẩn đoán được, đã
chết chiều qua và được mổ tử thi đêm qua. Hồi đó bệnh viện chưa có khoa giải
phẩu tử thi!
Bệnh nhân chết do thai ngoài tử cung
vỡ! Là bệnh nhân do tôi trực tiếp điều trị, tôi không bao giờ quên được cái
chết đó, nó in đậm vào trí óc, theo tôi đến bây giờ. Sau này tôi được ông Giám
đốc tín nhiệm giao vài nhiệm vụ trong bệnh viện... Sự may mắn và linh hồn người
chết? Đã giúp tôi thoát được hầu hết những “ca” bệnh thai ngoài tử cung được
tôi chẩn đoán.
Ông
Vủ Tánh, giám đốc bệnh viện tỉnh, người tầm thước, khuôn mặt khắc khổ, nóng
nẩy…Nhưng đối với bệnh nhân ông rất nhiệt tình, thương mến người bệnh vô cùng.
Hơn 10 năm làm việc tại bệnh viện, tôi đã học ở ông quá nhiều điều, gặp một ca
bệnh khó tôi xin ý kiến của ông bất cứ lúc nào cho dù gần giờ tan sở, ông bỏ ăn
tối ngồi cùng tôi suy nghĩ giải quyết cho bệnh nhân có lúc 8-9 giờ tối mới về
nhà! Ông không những là người thầy trong chuyên môn, người thầy trong y đức mà
còn là người anh trong cuộc sống có quá nhiều khổ ải của tôi…Nhiều việc làm của
ông giúp tôi lấy lại niềm tin rằng cuộc sống này vẫn tốt đẹp. Ông mất ngày 30
tháng 4 năm 1996 để lại nhiều luyến tiếc của bạn bè, đồng nghiệp và là một mất
mát lớn của gia đình tôi.
Ngày 2 tháng 8 năm 2006
Năm
1976 tôi đã 34 tuổi, tôi còn độc thân theo đúng nghĩa, đơn độc, hoàn toàn đơn
độc; Cha mẹ chết từ lúc tôi còn nhỏ, anh chị tôi tập kết năm 54. Ở miền nam chỉ
có anh cả, trung tá chế độ cũ đang học tập cải tạo, ngày về vô định. Tôi di tản
từ Nha Trang vào Sài Gòn, không chốn nương thân. Sài Gòn hàng triệu dân, bạn bè
vài chục đứa nhưng xin tá túc, ăn nhờ ở đậu nhà chúng không phải dễ! Gặp bạn
nào của tôi cũng lơ lơ láo láo, nhìn ngang ngó dọc lo sợ đủ thứ chỉ tính chuyện
vượt biên, tôi ở trong tầng lớp các bạn như thế nhưng tôi không có ý muốn định
cư nước ngoài! Thôi thì xin việc gì đó có chỗ ở, có cái ăn, trong rừng núi, nơi
hải đảo càng tốt và tôi có ý định “lấy vợ” cho xong một đời! Sau đó tôi có việc
làm là đi công tác tại vùng kinh tế mới. Tôi đi cùng nhóm với hai người bạn gái
mới ra trường. Một trong hai người bạn gái ấy có chị TÂM, chị 23 tuổi, dáng
người đầy đặn dễ coi, hai mắt to, sáng, hiền lành, sóng mũi cao, phù hợp với
tổng thể khuôn mặt có chiếc cằm hơi trẹt xuống chiếc cổ ngắn, thẳng; Nói tóm
lại chị là một dạng người cân đối hài hoà toàn thân, không xấu, không đẹp. Tôi
phù hợp với loại người như thế. Tôi là kẻ “lắm mồm”, chị thì ngược lại không
nói không rằng, ai hỏi gì chỉ trả lời ít tiếng, gần như thô thiển; Luôn luôn
tôi nhìn chị với ánh mắt thiện cảm, có lẻ chị cũng biết điều đó? Chúng tôi làm
việc với nhau vài tháng thì cái tình cảm ấy ngày càng sâu nặng. Tôi và chị
thường cùng nhau tâm sự về cuộc đời đã qua, về tương lai sắp tới; Nói đúng hơn
chỉ có một mình tôi nói chị chỉ lắng nghe, chị nghe như nuốt tất cả những lời
tôi nói với đôi mắt hiền hậu vô cùng; Tôi nói với chị: Chiến tranh đã hết, công
việc y tế chúng ta làm hiện nay cũng chỉ tạm bợ, tôi phải định hướng cho mình;
Tôi hỏi chị: “ Em có sẵn sang về quê làm ruộng cùng tôi sống êm đềm trong một
căn nhà tranh vách đất như ông cha ta đã sống?” Chị đồng ý, chị cũng thấy cái
hướng đi đó thật thơ mộng; Còn tôi, tôi quên
một điều là làm sao có ruộng cho tôi cày? Làm sao tôi tậu được một căn
nhà tranh vách đất? Mơ mộng thì cứ mơ mộng, trước mắt vẫn phải làm tốt công
việc… Càng ngày chúng tôi càng gắn bó thân thiết và một ngày nọ tôi nói với
chị: “Tôi yêu em, tôi muốn lấy em làm vợ, sống suốt đời với em? “Chị đồng ý.
Thế rồi mẹ chị (tức bà nhạc của tôi sau này) lặn lội từ thành phố biển Nha
Trang cùng 2 người em của chị vào tận khu kinh tế mới, nơi chúng tôi đang làm
việc để “xem“ mắt con rễ và anh rễ tương lai? Hai đứa em của chị là cậu Trung
và cậu Tùng rất dễ thương (sau này định cư ở Đức và ở Canada). Ngày “bà nhạc”
tôi đến tôi đang trần người trẫy bắp ở khu đất quanh trạm xá xã Tân Khai: lúc
đó xã giao cho chúng tôi sau giờ làm việc tranh thủ trồng loại bắp trái to hạt
đỏ. Họ chỉ cho tôi cách làm đất, bón phân, cách gieo hạt, các hạt, các hàng
cách nhau bao nhiêu phân tây… Tôi bỏ công việc để đón tiếp “bà nhạc và hai em
vợ tương lai”. Bữa đó trạm xá như ngày hội, năm 1976 mà chúng tôi được ăn súp
măng cua, đủ thứ bánh kẹo do “nhạc mẫu tương lai” của tôi đem từ Nha Trang vào
nấu cho chúng tôi ăn; Hai đứa “em vợ tương lai” cũng rất mến tôi, hồi đó tôi là
một chàng trai dễ mến, cởi mở, không ngại khó khăn, yêu mến mọi người và yêu
cuộc sống…Thế nên tôi được mọi người yêu mến nhiều hơn là ghét bỏ.
“Bà nhạc tương lai”
hỏi tôi: “Cậu có thật tình ưng con TÂM
của bà không?” Tôi nói tôi muốn lập gia đình với cô ấy, tôi thương cô
ấy. Tôi sợ bà “lo” cho con gái mình nên tôi nói thêm “Bác cứ yên tâm, không có
gì bê bối trong thời gian tôi công tác cùng cô ấy, tôi cũng nói thêm là ý muốn
của tôi về việc thành lập gia đình là như thế nhưng thật khó, vì tôi hoàn toàn
không có gì cả, kể cả gia đình, cha mẹ, anh em và đặc biệt là tôi không có một
xu dính túi, tôi ăn ở tại trạm xá rau, sắn qua ngày; Hơn nữa tôi lại sợ cấp
trên của tôi nghĩ không tốt về tôi là mới đi làm mấy tháng đã sinh chuyện!
(Cấp trên của tôi hồi đó là chị Ba vợ
ông Huỳnh Văn Nghệ). Bà nhạc của tôi nói: “Cậu khỏi lo chuyện tiền bạc, còn
chuyện trai lấy vợ gái lấy chồng là thường tình, không sao cả, để gia đình bà
lo – yên chí”. Ở lại vùng kinh tế mới hai ngày bà cùng hai đứa “em vợ tương
lai“ của tôi về lại Nha Trang. Cuộc sống của chúng tôi vẫn một ngày như mọi
ngày; Bốn tháng sau tôi được điều về
tỉnh, chúng tôi vẫn liên lạc với nhau. Dịp tết Nguyên Đán đầu năm 1977 chúng
tôi cùng hẹn về Nha Trang thăm nhà của chị TÂM (lúc này đã là người yêu của tôi
hay nói đúng hơn hai đứa tôi cùng yêu nhau). Chúng tôi đi xe lửa; Thời đó kiếm
được 2 vé xe chợ đen từ ga Bình Triệu về Nha Trang là cả một vấn đề, cuối cùng
chúng tôi cũng đến được ga xe lửa thành phố Nha Trang vào 3 giờ chiều, chúng
tôi cùng ngồi trên một chiếc xích lô từ ga về nhà tại trung tâm thành phố,
cách ga xe lửa khoảng 3 km. Vừa về đến
cửa thì “Ông nhạc tương lai” của tôi,
ông Thái Quang Tốn đang đi ra cửa, dáng bệ vệ, đẹp lão, ông rất mừng vì
con gái yêu của ông là “kẻ ở miền xa” về nhà nhưng thấy có một “thằng” người
râu ria đầy cằm (Tôi để râu từ lúc còn ở trường Đại học) cùng ngồi xích lô với
cô con gái cưng của ông thì có vẻ ông không vui, tôi đọc được trong mắt ông.
Gia đình của TÂM thật hạnh phúc 8 chị em
(4 trai, 4 gái) TÂM là chị cả, tất cả đều hoà nhã, vui tươi, vô tư lự, đứa em
út lúc đó là cu Nhật mới 3 tuổi, trố mắt nhìn tôi như sinh vật lạ, (sau này cậu
ấy sinh sống định cư cùng anh tại Canada). Các em khác thì 2 đứa đã quen biết
tôi như đã nói ở phần trên, còn lại thì đứa nào cũng dễ mến, sạch sẽ và có giáo
dục. Gia đình TÂM thuộc dạng thị dân trung bình ở thành phố, Ông là chủ tiệm
thuốc tây, bà bán vải tại chợ Đầm. Về lại Nha Trang tôi rất bồi hồi; Trước đây
tôi làm việc tại quân y viện Nguyễn Huệ Nha Trang, chạy làng di tản cuối tháng
3/1975, vào Sài gòn lên xã tân Khai - Bình Long thế mà đã hai năm, cảnh cũ
người xưa! Tôi háo hức đi một vòng quanh thành phố, thăm lại nhà cũ tôi thuê ở
đường Hùng Vương, thăm quân y viện Nguyễn Huệ đường Bạch Đằng (Nay là đường
Trần Phú), thăm những bạn bè, ai mất ai còn: Một số thì vượt biên, một số thì
đang học tập cải tạo, số khác đi xa sinh sống. Tôi thăm lại những quán cà phê,
những nhà hàng nơi trước đây tôi thường lui tới… Tất cả, tất cả cũ mà mới!
Những kiếp người mới; Thật xao xuyến, thật bồi hồi… Nhưng thế nào thì vẫn phải
là chuyện phía trước, dòng đời vẫn chảy …
Buổi ăn tối đủ cả 11 người
( kể cả tôi ), thật vui, thật thịnh soạn, tô canh tổ chảng nấu “ngót” nhiều đầu
cá thu tươi nấu với cà chua, thơm, hành, ngò; Cua huỳnh đế cả một rổ to; Mực
tươi xào…Toàn đồ hải sản, “bà nhạc” tôi là người nấu ăn ngon, nhanh, tôi ăn no
nê. Trong bữa ăn “vợ” tôi hỏi “ông nhạc”: Ba, thấy được không Ba? Tôi như nghẹt
thở, trầm ngâm một chút, một chút thời gian…Ông ấy nói “Được, được”. Thế là tôi
như trong cơn mơ, nói một cách thiếu văn hoá và lố bịch: Tôi nói về gia cảnh,
việc làm và gọi ông “Bà…Bà” (gọi Ba nhưng giọng trọ trẹ) “vợ” tôi tức cười, tôi tiếp tục nói như
trong vô thức: “Bà…Bà” cứ coi như bữa nay là “NGÀY ĐI HỎI VỢ CỦA CON”. Ông bà
nhạc vui vẻ, rộng lượng, các em vợ tôi thì cười vô tư. Thế là tôi đã có vợ; Tôi
ở chơi nhà vợ 3 ngày, đi vài nơi, hoài niệm nhớ nhung bâng quơ rồi lên tàu trở
về nhiệm sở. Tôi làm việc tại bệnh viện tỉnh, vợ tôi làm việc tại trạm xá xã
Tân Khai-Bình Long, thỉnh thoảng lại gặp nhau. Chín tháng sau, chọn ngày lành
tháng tốt, ngày 21-09-1977 gia đình vợ tôi sắp xếp xong, bảo chúng tôi xin phép
2 cơ quan về làm đám cưới; Đám cưới khá đơn giản, tổ chức tại nhà nhưng không
kém phần quan trọng, chủ hôn là ông bà Bùi Liên đáng kính. Lên đèn, lạy gia
tiên nhà vợ, ông bà nhạc tôi khóc tiễn con “về nhà chồng”. Ba ngày sau chúng
tôi vào Sài Gòn lên Bình Dương, kẻ lên non (vợ tôi làm việc tại trạm y tế xã
Tân Khai), người ở lại công tác tại bệnh viện Tỉnh, lâu lâu mới gặp nhau.
Mười
ba tháng sau ngày 28 -10-1978 đứa con
gái đầu lòng của chúng tôi chào đời, tôi đặt tên cháu là NGUYỄN THỊ ĐÔNG HÀ để
nhớ miền đất đầy nắng gió ở quê tôi. Sau này có lần tôi tặng con gái thân yêu
của tôi bài thơ dài, nói là thơ nhưng chỉ là những câu “nói lối” vụng về
ĐÔNG
HÀ là tên tôi
Là
quê hương nóng bỏng
Là
nơi Phidel Castro đã tới
Cho
những con người cùng một cuộc đời
Và
bầu trời bên kia đại dương vẫn sáng ngời chân lí.
ĐÔNG
HÀ là tên tôi
Là
quê hương nóng bỏng
Là
ngã ba đường quốc tế
Nối
liền Hà Nội - Huế - Luang Prabang !
…
Bài thơ còn dài nhưng thôi … Đông Hà là vùng đất anh dũng, hy sinh mất mát quá
nhiều, Đông Hà bây giờ đã thay đổi, là hy vọng của Quảng trị thân yêu, tôi tin
thế và chắc chắn như thế.
Ngày 7-8-2006
Ông Tám có vợ và ba con, ông có thân
hình chắc nịch, mặt vuông, nước da đen xạm, hình ảnh chính thống của một nông
dân siêng làm, ăn dễ, ngủ dễ. Ông phụ trách hậu cần bệnh viện Tỉnh nhưng rất
nghèo, ông ít học, chữ viết chưa thông mà giữ vai trò quan trọng như thế thì
làm sao bệnh viện tiến lên được? Bản thân ông chỉ ăn lương, đủ sống nhưng không
đủ no! Thế nhưng ông cũng xoay xở cách nào đó để có một căn nhà gần bệnh viện.
Cuối những năm 1978, trong kì đổi tiền lần thứ
hai: Mỗi người chỉ đổi tối đa 100 đồng tiền mới (trị giá khoảng một triệu đồng
bây giờ), để cho dễ hiểu 100 đồng lúc đó đủ ăn một tháng cơm bình dân; Hộ của
tôi chỉ có một người là tôi; Tôi đã có vợ nhưng gặp lúc vợ tôi đi phép về Nha
Trang thăm gia đình và cô ấy đang có bầu. Tôi không đủ tiền cũ để đổi lấy 100
đồng tiền mới, nhưng loanh quanh đâu đó cũng đổi được 100 đồng, giữ lại cho vợ.
Vài ngày sau vợ tôi vào đem theo 200 đồng, cô ấy nói là bà nhạc tôi đã đổi được
100 đồng, gom lại cho con gái vào với chồng. Lúc đó tôi đang ở nhà thuê “cà
khổ”, tiền nhà 3 đồng một tháng .
Tôi và vợ gặp dịp may là ông Tám hậu cần
muốn bán căn nhà gần bệnh viện với giá 300 đồng để mua căn nhà 500 đồng tôi
đang thuê. Sự ráp nối như một bàn cờ DOMINO được chuẩn bị sẵn! Ngày chúng tôi
về nhà mới cũng là ngày ông Tám về nhà mới (mới của ông Tám là cũ của tôi và
ngược lại; Cũ của ông Tám là mới của tôi!). Tôi chở vợ trên chiếc xe gắn máy
suzuki già, chỉ một chiếc xe gắn máy là đủ dọn nhà trừ cái giường gỗ 1m x 2m
tôi đã đem đến trước. Tôi thấy vợ tôi xách một giỏ áo quần, một ít chăn mền cũ
nhưng sao nằng nặng? Về đến nhà mới, tôi mới thấy cái nặng nhất, có giá trị
nhất là “3cục đá” làm bếp nấu ăn trưa,
đem từ nhà cũ đến! Tôi hơi khó chịu nhưng vợ tôi thật “tuyệt”: Nhờ “3 cục đá”
đó chúng tôi bớt vất vả vì đã có bếp lửa để “Nổi lửa lên em”. Có chút ít gạo,
có một bao mực mắm do vợ tôi đem vào từ Nha Trang. Một bữa cơm trưa thật tuyệt
vời! Tôi đi thăm căn nhà 28m2 (10m x 2.8m), nhà cũng được chia làm 3
phòng; Phòng trước để được một cái giường sắt loại 0.8m x 2m và để chiếc xe gắn
máy của tôi; Phòng giữa là phòng ngủ, tôi kê hai giường gỗ nhỏ ghép vào nhau
thành 2m x 2m, một trong hai giường đó là do ông y tá Tân cho tôi, cái giường
còn lại tôi được phân phối lúc còn công tác tại Ban y tế kinh tế mới Tỉnh; Như
vậy trong phòng ngủ cũng còn đường đi 0.8m; phòng cuối cùng rất dơ, tôi để được
một cái thùng phi trét đầy nhựa đường đã khô, để đựng nước, nhựa đường nham nhỡ
lồi lõm từ bên trong lẫn bên ngoài; Cái thùng phi do anh Nguyễn Lịch Thiệp ở
Phú Lợi bán cho tôi với giá 3 đồng! Tôi quên mất tôi quen anh Nguyễn Lịch Thiệp
trong trường hợp nào? Cái khó khăn của phòng cuối cùng là không có cầu tiêu;
Không biết từ lúc nào người thiết kế căn nhà cũng để một ô vuông 1mx1m để làm
cầu tiêu, nhưng cũng không biết từ lúc nào ông Tám đã bít cầu tiêu bằng xi
măng, trên đó ông để cái bàn gỗ bốn chân cũng 1mx1m vừa đủ sít 3 bức tường,
trên mặt bàn gỗ ông để một ông Táo nấu ăn? Vợ chồng tôi thì không cần bếp, nấu
ăn đâu mà chẳng được, chỉ cần “3 cục đá“ là có bếp. Cái tôi cần là cầu tiêu cho
vợ “sử dụng”, tôi thì “đi” đâu mà chẳng được. Từ nhà tôi lên bệnh viện Tỉnh đi
vòng vèo chỉ có 70m; Lúc đó tôi đang làm Trưởng khoa cấp cứu hồi sức bệnh viện
Tỉnh, nằm sát đường BS Yersin, nếu muốn “đi” tôi tha hồ! Nhưng vợ tôi bụng mang
dạ chữa, nếu có “nhu cầu” thì làm sao? Tôi quyết định moi lớp xi măng bít hố xí
ra, ồ…May quá, phân đã cũ như tro bếp, càng moi càng sâu, cuối cùng cũng xuống
đến lỗ cầu không đáy sâu một cánh tay, có lẻ nó thoát ra các mương chung quanh.
Tôi mừng quá reo to “Em ơi “đi” được rồi”. Nói thêm một chút về căn nhà của
tôi: Từ bệnh viện nếu đi thẳng qua cái vila của anh Hai N… giám đốc sở nông
nghiệp thì khoảng 30m (không kể chiều ngang đường Yersin). Nhưng từ cổng bệnh
viện chúng tôi phải đi dọc theo đường Yersin khoảng 3-4 căn nhà rồi quẹo trái,
xuống con dốc đứng dài chừng 40m lại quẹo trái đi tiếp đến gần cái mô đất có
cái mã to là nhà tôi, phía trong hẽm cụt đó sát mã to còn có một căn nhà nữa là
nhà cô Tư Vàng. Tóm lại nhà tôi cách bệnh viện khoảng 70m .
Vợ
chồng tôi ở đó thật hạnh phúc, đi làm sớm về muộn. Trong hơn 3 năm làm việc tại
khoa cấp cứu hồi sức tôi chưa trễ giao ban sáng (7 giờ) dù chỉ một phút, một
hai giờ đêm nếu lo âu, bồn chồn tôi có thể ra thăm lại bệnh tại khoa, những
bệnh tôi sợ họ chết trong đêm! Vợ tôi thì cũng khoẻ, đi lên đi xuống con dốc
sau này sanh dễ, lúc đó vợ tôi đã có bầu thai kì thứ 3. Nếu không nói thêm một
chút về căn nhà của tôi thì thật thiếu sót: Căn nhà không điện không nước, căn
nhà quá dơ, tôi nghĩ nuôi heo thì heo cũng chết! Điện thắp sáng không cần lắm,
tôi dùng đèn dầu “hột vịt”. Tôi xin câu nước tại nhà Bác Tư bán rau phía sau,
mỗi lần xin câu nước vợ tôi phải gọi ới ới chị Hoa con bác Tư, lúc vui, tiện
việc thì chị kéo cái ống cao su gắn vào phong ten cho chúng tôi có nước xài,
vài ngày chúng tôi mới xài hết 1 phi nước! Có lần vợ tôi xin chị Hoa cho câu
nước “Chị Hoa ơi cho em xin câu nước”, chị la vợ tôi “Không Bông không Hoa gì cả” rồi bỏ đi. Tôi
nói với vợ “Thôi để lúc khác vậy, lúc này lúc nọ ai cũng có cái vất vả, bận rộn
buồn bực! Họ la mình thì có sao đâu?Họ là những người lao động, lương thiện, là
những người tốt” .
Nhà
ở như thế nhưng rất hạnh phúc, hạnh phúc nhất là tiện cho việc đi làm. Gần một
năm thì cầu tiêu bị bít mà con gái đầu lòng của chúng tôi thì mới ra đời trước
đó vài tháng! Bí quá tôi dùng bịt nilon cho vợ tôi “xã” vào, cột bịt lại, bốn
giờ sáng dậy sớm đem quẳng vào đống rác đối diện bệnh viện, rồi đi chợ mua thịt
cho vợ ăn để có sữa cho con bú, những lần quẳng bịt nilon đi chợ trở về nhìn
thấy chó xé ra tôi lợm giọng…Và buồn vô cùng .
Cứ
như thế: chúng tôi tiếp tục “Sống, chiến đấu lao động học tập theo gương Bác Hồ
vĩ đại”. Rồi cũng có ánh sáng: Đầu tiên là cô Tư Vàng có căn nhà cuối hẽm cụt
bên vùng đất có cái Mã lớn, đào được ao cá tra; Tôi tặng cô chiếc xe đạp cũ và
cô cho chúng tôi đi “xả” trên ao cá tra. Về điện thắp sáng thì do tôi vui miệng
nói chuyện với ông giám đốc bệnh viện. Cám cảnh, ông giám đốc bảo ông “Mai
Thành Ác”, hồi đó tôi gọi như thế chứ ông ấy tên là Mai Thành U…, làm trưởng
phòng hậu cần thay ông Tám, kéo điện bệnh viện cho chúng tôi thắp sáng hai bóng
đèn tròn, khỏi trả tiền; Và rồi tôi cũng xoay xở kéo được công tơ nước vào tận
cửa!
Chúng
tôi ở căn nhà ấy được tám năm, có 3 đứa con: 1 gái, 2 trai. Năm 1982 người bạn
cùng làm việc với tôi tại bệnh viện Tỉnh là Bác sĩ Thiều Lợi đi định cư tại Mỹ
tặng tôi 5 lượng vàng Kim Thành chúng tôi dè xẻn xài từ từ một ít cho đến năm
1984 còn để dành được 3 lượng vàng, mua một căn phố ở số 30 đường Ngô Chí Quốc
(hồi đó gọi là đường Nguyễn Trường Tam). Chúng tôi ở căn nhà này từ năm 1984
đến năm 2000 thì bị “giải toả trắng” để làm kè rạch, họ không cho chúng tôi mua
đất tái định cư (theo quy định của chính phủ), họ nói không có quỹ đất? Họ chỉ
hổ trợ bồi thường cho chúng tôi 197 triệu đồng. Với số tiền đó tôi chỉ mua được
bằng nửa miếng đất cũ cùng đường! May mắn thay do cần cù, do các em tôi và anh
Thiều Lợi ở Mỹ giúp đỡ tôi xây được căn nhà khang trang tại số 9 đường Ngô Chí
Quốc,Thị xã Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương.
Xin
cảm ơn mọi người, xin cảm ơn xã hội .
Ngày 10-8-2006
Mùa hè năm 1987 tôi đi công tác tuyến
huyện với ông Vũ Tánh, Giám Đốc bệnh viện tỉnh. Tôi được phép chỉ làm việc một
ngày tại bệnh viện huyện Đồng Phú, rồi đi thăm anh tôi đang làm rẫy ở gần huyện
lị.
Làm
xong công việc thì đã hơn 4 giờ chiều. Từ bệnh viện huyện tôi đi như chạy về
rẫy của anh tôi, mong sao chóng gặp để thăm anh. Đã hơn một năm nay anh em tôi
không gặp nhau mặc dầu chỉ ở cách nhau hơn 100 cây số! Trên đường đi tôi không
quên ghé chợ Đồng Xoài, tuy đã cuối ngày nhưng còn cái gì đó để “mua” đem lên
gặp anh tôi? Tôi mua một lít rượu đế, còn bao nhiêu tiền tôi đều mua hết “thịt
heo chiều”, có lẻ cũng hơn một cân? Tôi “xài” hết sạch tiền trong túi, cũng
chẳng là bao? chừng vài chục ngàn (nếu tính thời giá bây giờ).
Hơn
5 giờ chiều tôi đến nhà anh tôi. Chiều ở rừng,tối sớm, nhưng anh tôi cũng còn
loay hoay chăm bón mấy góc dừa non, mấy cây đu đủ đã có trái. Anh em mừng rỡ, anh
tôi đã ở tuổi “Thất thập cổ lai hi!” trông thật thảm hại. Nhăn nhúm, đen đủi,
râu dài xuống ngực. Thăm hỏi qua loa rồi tôi bày ra mớ thịt heo và lít rượu đế
để hai anh em cùng “nhâm nhi”. Anh rủ tôi đem mấy thứ đó qua nhà kế bên. Anh
giới thiệu trước với tôi là anh có một “ông cụ” bạn rất thân của anh, rồi anh
chỉ qua cái nhà tranh gần đó. Chúng tôi qua đó, anh giới thiệu với tôi về ông
cụ bạn già của anh: Cụ Xuân Hương, áng chừng 80 tuổi nhưng trông rất khoẻ mạnh,
da mặt hồng hào, chào hỏi vui vẻ…Sau này tôi mới biết cụ Xuân Hương là một “đại
gia”: Cụ có đến ba bà vợ: Một bà ở Cái Bè, một bà ở Dĩ An, một bà ở thị trấn
Đồng Xoài. Cả ba bà vợ đều có cơ ngơi riêng và mỗi người cùng làm chủ một tiệm
ăn lớn. Ông cụ vào rẫy gần anh tôi, làm một cái nhà tranh, ở đó một mình, ngày
ba bữa có cơm, thịt, rượu từ bà vợ có tiệm ăn ở thị trấn Đồng Xoài đem vào cho
ông. Cụ thường cưu mang giúp đỡ anh tôi, có gì ăn với nhau cho vui. Thế nên anh
tôi mới bảo tôi qua nhà cụ để cùng “nhâm nhi”. Âu cũng là để đền đáp một chút
tri ngộ của cụ! Và để giới
thiệu tôi.
Tôi
xuống bếp thái thịt, rau thì tha hồ xào nấu, gia vị, hành phi thơm lừng. Cụ
Xuân Hương lại có sẵn một số thức ăn đặc sản do tiệm ăn đem vào còn để đó: một
ít thịt rừng, một ít tôm, cá…Và cả một vò rượu thuốc loại ngon của cụ!
Thế
là ba chúng tôi ngồi “nhâm nhi” mãi quá 12 giờ đêm, nói đủ thứ chuyện. Hồi
trước cụ là chủ tiệm thuốc tây nên cụ thích nói chuyện với tôi. Chúng tôi đều
“bí tỉ”. Tôi có vẻ mệt hơn cả? Cụ Xuân Hương mặc dầu đã gần 80 tuổi nhưng lại
“cứng” hơn hai anh em tôi. Anh tôi thì đã 70 tuổi, tôi chưa đến 50!.
Đã
quá khuya chúng tôi xin phép cụ về nghĩ để sáng mai hai anh em tôi còn ra thị
trấn đón đoàn công tác cùng về Bình Dương. Về chòi tranh của anh tôi, hai anh
em tôi nằm xuống đã “thiếp đi” do uống quá chén. 8 giờ sáng hôm sau chúng tôi
thức dậy cùng đi ra thị trấn. Trên đường đi vừa mệt vừa đói, có lẻ tôi bị hạ
đường huyết nên thấy “đuối” quá? Tối hôm trước tôi “uống” là chính, chỉ ăn láp
nháp, tôi lại có cái “tật” uống rượu thì không ăn hoặc ăn rất ít. Anh tôi khoẻ
hơn, có lẻ do ông lao động chân tay hàng ngày, cơ thể đã quen? Dọc đường tôi
“thèm” một ly cà phê đen nhưng trong túi không còn đồng xu! Tôi hỏi anh tôi:”
anh có vài đồng uống cà phê đen không?” Anh nói có 6 - 7 đồng gì đó đủ để uống
2 ly cà phê đen. Tôi mừng quá, cùng anh tấp vào cái quán cà phê cóc bên đường
đất đỏ uống mỗi người một ly cà phê. Tinh thần phấn chấn, chúng tôi đi tiếp ra
thị trấn Đồng Xoài thì đã 11 giờ trưa! Tôi ghé vào nhà cậu bạn quen, chủ tiệm
vàng K.D, cậu ta tên là M… vốn quen biết với tôi ở Bình Dương. Chúng tôi vào
thăm gia đình cậu ta, nhà lầu, bề thế. Tôi nghĩ chắc cũng được đón tiếp. Có lẻ
cậu ta thấy anh em tôi “bèo nhèo” quá nên thái độ lơ là thấy rỏ! Cậu ta cũng có
“mời lơi” chúng tôi dùng cơm trưa. Tôi nói chúng tôi đã ăn cơm ngoài chợ! Thế
rồi anh em chúng tôi “đói meo” lê gót vào bệnh viện huyện, lúc đó cán bộ công
nhân viên bệnh viện đã nghĩ trưa. Anh em tôi nằm lê lết đâu đó “gồng mình” chịu
trận chờ đoàn công tác trở về…Suốt buổi chiều chỉ uống ít nước, lả người vì đói
và mệt. Chờ, chờ mãi đến 5 giờ chiều bệnh viện nghỉ việc, đoàn cũng không thấy
về… Đến 6 giờ, người bán quầy thuốc bệnh viện vẫn còn ở đó. Có lẻ anh biết anh
em chúng tôi “đói” nên anh chân tình mời “Bác” và “Thầy”, anh gọi anh tôi là
“Bác” và tôi là “Thầy” ra tiệm dùng cơm? Anh mời rất thật. Chúng tôi đi với anh
ra cái tiệm cơm gần bệnh viện, tiệm cũng “thường thường bậc trung”. Anh gọi đủ
thứ, có cả bia 50. Tôi có cảm tưởng như một lúc “nuốt” hết mọi thứ dọn trên
bàn, nhưng cố trấn tĩnh, ăn từ từ, uống từ từ, gậm nhấm cái hương vị thức ăn,
xoa dịu từng bước cái đói, cái mệt. Trời mùa hè sao mà thấy mát mẻ quá? Tôi
uống đến hai chai bia 50, ăn đến 3 chén cơm và thức ăn. Anh ấy cho chúng tôi ăn
uống đúng lúc quá! Anh ấy là một ân nhân, anh ấy là “thượng đế” của chúng tôi.
Tại sao lại có những người tốt bụng, dễ mến đến thế?
Mãi
đến 8 giờ tối đoàn công tác từ bệnh viện huyện Bù Đốp mới về đến bệnh viện
huyện Đồng Phú. Để tranh thủ thời gian, Bác Sĩ Giám Đốc bệnh viện Tỉnh đón anh
em chúng tôi và cho xe về thẳng Bình Dương. Ông bảo về huyện lị Phú Giáo rồi
nghỉ ăn tối. Anh em tôi thì đã no nê, lên xe với tinh thần phấn chấn…Về đến Phú
Giáo, vào một tiệm lớn, đoàn công tác ăn uống dư dả, riêng anh em tôi thì đã
quá no do “bữa cơm được ban tặng” tại huyện Đồng Phú nên chỉ ăn qua quít là đầy
bụng.
Đời
tôi đói khát nhiều lần, dư thừa cũng có thể bằng chừng ấy lần nhưng chưa bao
giờ có một bữa ăn uống ngon và có ý nghĩa như bữa ăn do anh bạn tốt bụng ban
tặng. Vô cùng cám ơn anh, tôi nhớ mãi anh. Gần 20 năm tôi muốn tìm anh để biết
tên anh nhưng sao vẫn chưa làm được việc “quan trọng” đó mặc dầu anh và tôi
sống chỉ cách nhau hơn 100 cây số. Chúng ta có quá nhiều việc để bận tâm phải
không anh? Gia đình, vợ con, cơm, áo, gạo tiền…
Thời
gian mãi mãi đi về phía trước và chúng ta thì bị nó cuốn theo, có lúc chúng ta
như bị quẳng vào cơn lốc của bão tố!...
Tôi
rất trân trọng anh nên xin báo với anh cụ Xuân Hương mà tôi kể trong tự truyện
này đã chết già tại thi trấn Dĩ An cách đây chừng 10 năm, cụ sống hơn 90 tuổi.
Có lẻ anh còn biết tiệm cơm Xuân Hương ở thị trấn Đồng Xoài dạo nọ là của bà
Xuân Hương; Còn anh hai tôi mà anh gọi là “Bác” thì định cư ở Mỹ năm 1993. Nay
ông ấy đã 83 tuổi, còn khoẻ mạnh. Tôi không biết sống ở Mỹ ông ấy có cảm nhận
và nhớ về “Bữa cơm hạnh phúc” đó không? Riêng tôi năm nay đã là ông già 66 tuổi
nhưng không bao giờ quên bữa cơm do anh ban tặng. Tôi không theo tôn giáo nào,
nhưng thỉnh thoảng ngồi vào bàn ăn nhớ đến anh, tôi thầm đọc câu cầu nguyện
trước khi ăn của các tín đồ của một đạo phái nọ: “Xin vì ơn lành này trong muôn
ngàn ơn lành khác mà thành tâm cảm tạ!” Amen.
14 – 09 – 2006.
Năm
1985 gia đình tôi lâm vào cảnh “bế tắc”. Tôi và vợ làm việc tại Bệnh viện Tỉnh.
Lương tháng của tôi vừa đủ xài vặt trong căn tin bệnh viện và “đi lại” với bạn
bè. Lương tháng của vợ tôi thì càng tệ hại, không đủ cho một mình cô ấy sống,
thế nhưng chúng tôi phải nuôi ba đứa con: Đứa đầu mới học lớp 1, hai đứa kế gởi
mẫu giáo, gia đình tôi vô cùng “nhếch nhác”, con cái “nheo nhóc”, suy dinh
dưỡng. Tôi tự hỏi: Làm sao cứu được gia đình?...
Một
bữa nọ, chúng tôi đến chơi nhà anh Khắc Bình, trưởng đồn công an phường. Tôi
được anh giới thiệu “tham quan” chuồng gà đẻ trứng của anh. Lúc đó trong chuồng
có vài cái trứng to do gà mới đẻ, vợ anh chưa kịp nhặt. Anh chị ấy nuôi chừng
50 con gà đẻ. Anh nói mỗi ngày gà đẻ được 40 trứng, đạt 80% lượng gà nuôi.
Chúng tôi “mê” quá. Tôi tự nghĩ có lẽ đây là giải pháp tốt để “gỡ bí” cho cuộc
sống của gia đình tôi?
Về
nhà chúng tôi bàn đi tính lại, cuối cùng quyết định: “Nuôi gà công nghiệp đẻ
trứng”, mặc dù chúng tôi hoàn toàn “mù” trong vấn đề chăn nuôi. Cả hai chúng
tôi từ nhỏ đến nay chưa hề biết làm gì khác ngoài đi học rồi đi làm công chức
trong ngành y tế!
Đã
quyết là làm. May ra?...
Thế
là một ngày chủ nhật tôi ở nhà giữ ba đứa bé chạy nhặng xị trong căn nhà nhỏ
xíu. Vợ tôi về Sài Gòn với một ít tiền đem theo để tìm chỗ mua gà con, gà công
nghiệp, mua chuồng gà và thức ăn của gà. Chiều cô ấy “lũng cũng” mang về nhà
hai cái chuồng gà đan bằng kẽm, trong đó có nhiều gà con kêu “chít… chít”, với
mấy bao cám đúng tuổi gà ăn, theo hướng dẫn của người bán gà con. Mặt cô ấy lấm
tấm mồ hôi, vẻ mặt hốc hác. Tôi biết vợ tôi mệt lắm vì hồi đó đi xe đò từ Bình
dương về Sài Gòn khá vất vả, mặc dù chúng tôi đã quen được người bạn quản lý ở
bến xe nên lần đi xuống dễ hơn nhưng lần đi về phải chen lấn, lên xe chật như
“nêm”, gian nan lắm! Mỗi con gà lớn bằng con chim cút, kêu ríu rít. Tôi và các
con tôi cũng thấy vui. Cái vui của tôi phần nào nhờ hy vọng đang được nhen nhúm
là có thể gỡ được “thế bí” về hoàn cảnh sống của gia đình.
Vợ
tôi nói: Mua được gà “ngoại” một tuần tuổi, ăn cám một tuần tuổi và cứ thế 2
tuần, 3 tuần sau thì cho gà ăn cám 2 tuần, cám 3 tuần…Cho đến lúc gà lớn và đẻ
trứng như gà đẻ trứng của anh chị Khắc Bình!
Tổng số gà con vợ tôi mua về là 50 con, nhét trong hai cái chuồng kẽm,
mỗi chuồng có 2 tầng.
Đêm ấy chúng tôi chăm chút cho
bầy gà ăn uống, rồi mỗi chuồng kẽm tôi gắn một bóng đèn tròn để sưởi ấm gà con!
Hai chuồng gà được đặt dựa vách cái phòng ngủ 4m x 3m ,
gần giường ngủ của 3 đứa con của tôi.
Chúng tôi nuôi được hai tuần lễ thì có
một số con chết, một số con có nhiều ghẻ ở hai chân. Vợ tôi “khuấy” bột
Tétracyclin và Vitamin B1 cho gà uống. Hàng tuần về thành phố mua cám để nuôi
cho đúng tuổi.
Sau 3 tuần đám gà lớn lên, hai chuồng kẽm không chứa được chúng. Tôi
phải kiếm chuồng gà khác? Suy nghĩ mãi tôi nhớ đến anh bạn làm nghề thợ mộc,
tôi đến nhà tìm anh, nhờ anh dùng cái “giường chiếc” tôi đang sử dụng, xẻ gỗ
làm cho tôi một cái chuồng gà bằng gỗ, có hai tầng để “sang” những con gà trong
chuồng kẽm qua. Anh thợ mộc làm xong cái chuồng gỗ hai tầng để vào phòng ngủ
của các con tôi, phòng trở nên chật chội! Nhưng chẳng sao? Miễn có hy vọng.
Thế
là chúng tôi cũng cố niềm tin bằng cách: Hàng ngày buổi sáng cho gà ăn uống rồi
đem hai đứa con nhỏ vào gởi mẫu giáo, đứa lớn học lớp 1 thì tự túc đi bộ đến
trường. Trưa chúng tôi ăn cơm ở bếp tập thể Bệnh viện rồi về nhà. Vừa về đến
nhà việc đầu tiên là dọn dẹp cứt gà, kế tiếp cho gà ăn uống rồi đi làm…
Cứ
thế thời gian trôi qua cũng nhanh…Gà chết lai rai, mạt gà thì ngày càng nhiều
trong căn nhà nhỏ xíu chúng tôi đang ở. Vợ tôi thì tận tuỵ với mấy con gà không
biết mệt, nhất là chuyện giải quyết “cứt gà”, càng ngày càng nhiều. Trong nhà
thì chỗ nào cũng nghe mùi “cứt gà”!
Có
lúc tôi “nổi khùng” vô cớ “la” cô ấy: Bà cứ cho tôi “ăn”cứt gà mãi như thế này
“chết sướng hơn!”. Thế nhưng cô ấy không nói, không cãi, không gây gỗ tôi, đó
là tính cách của cô ấy!
Sáu
tháng sau gà đã lớn, chết hết đúng 25 con, còn 25 con nhưng chẳng có con nào đẻ
trứng?! Mạt gà, cứt gà thì ngày càng nhiều!
27
tết năm 1986 đã đến! Tôi hết chịu nổi 25 con gà đang sinh họat chung với chúng
tôi trong căn nhà 39m2. Tôi la lối om sòm: “Vứt, vứt… Vứt hết đi”
đem vứt mấy con gà quái ác mà chúng tôi đặt tất cả hy vọng vào chúng?! Vợ tôi
không hề có tiếng nói, cứ “lầm lũi” dọn cứt gà và cho chúng ăn uống!
Thế
rồi cơn giận của tôi cũng qua đi, tôi nói với vợ: “Em ạ đem “bán” hoặc đem
“cho” chúng đi, chúng không đẻ trứng đâu!? Mình không biết nuôi gà công nghiệp,
hơn nữa gà nuôi trong nhà không có gió, không có ánh sáng mà nhà thì đóng cửa
đi làm, sao nó lớn được?”
Ngày
hôm sau 28 tết vợ tôi kiểm kê lại 25 con gà còn sống. Cô ấy qua cái lò giết mổ
gà vịt nổi tiếng ở gần nhà tôi, chỉ cách chừng 30m: Lò gà vịt quay Lý Vinh, hỏi
bán mớ gà đã nuôi 6 tháng. Chủ lò nói họ không mua gà công nghiệp!
Buổi tối tôi bàn với vợ đem
cho, coi như “quà biếu tết”. Chúng tôi chọn hai con lớn nhất, đẹp nhất biếu gia
đình Bác sĩ Giám đốc Bệnh viện Tỉnh, người rất quý mến chúng tôi; Rồi lại chọn
những con tốt kế tiếp đem biếu các bạn bè, người một cặp, người một con. Còn
lại 7 con suy dinh dưỡng, xấu xí nhất… Tôi để lại làm thịt ăn tết.
Chuyện
thanh lý 25 con gà công nghiệp đến 30 tết thì xong. Tôi đem cái chuồng gà ra để
bên hè nhà sát con rạch hôi hám. Tôi cũng không thể quên cái việc tôi “giết mổ”
7 con gà để ăn tết: Trong đám chúng nó, con lớn nhất chừng 1kg200, con nhỏ nhất
chừng 700gr; Con nào cũng suy dinh dưỡng nặng, ghẻ đầy hai cẳng gà và lông xơ
xác. Việc cắt cổ mấy con gà cũng có ấn tượng khó quên: Có con tôi cắt tiết xong
tưởng nó đã “ngõm”, để đó cắt con thứ hai… Nhưng lại nghe tiếng gáy “te…te” của
con vừa mới cắt tiết, nó chưa chết, chạy lên đám củi “rên la”! Cái giống suy
dinh dưỡng sống dai thật! Có con tôi vừa cứa vào cổ nó, tiết chưa kịp chảy ra
cái chén hứng ở dưới thì cổ gà đã lìa khỏi mình, một tay tôi cầm con dao, một
tay cầm cái đầu gà!
Cuối
cùng công việc làm “đồ tể” cũng xong. Vợ tôi luộc 7 con gà suy dinh dưỡng tôi
đã làm sạch, chờ nguội để vào cái tủ lạnh (tôi cũng mua được cái tủ lạnh cũ) ăn
ba ngày tết .
21-09-2006
Năm 1989 tôi được Bệnh viện cho nghỉ
việc mất sức với lý do chính đáng theo đơn xin: Run tay và suy nhược thần kinh.
Chưa đến 50 tuối mà đã thành người vô dụng thì thật đáng buồn! Mụ vợ tôi thì
cũng được cho nghỉ việc với lý do khó khăn gia cảnh trước đó một năm. Chúng tôi
lại đang nuôi ba đứa con nhỏ: Đứa lớn mới 11 tuổi, hai đứa bé 8 tuổi và 6 tuổi.
Nhà
quá nghèo, ở cái nhà bên con rạch chỉ có 39m2. Ngoài nghề phục vụ
trong bệnh viện chúng tôi không biết làm gì khác để kiếm sống? Thật sự chúng
tôi kém cỏi và vô dụng! Trong hai đứa thì vợ tôi chịu đựng và xoay xở tốt hơn.
Bà ấy cũng nghĩ ra cách kiếm được mỗi ngày 5–10 đồng bằng cách khám bệnh
“chui”. Do hồi trước chúng tôi làm việc tại Bệnh viện Tỉnh nên có một số người
còn nhớ đến, thỉnh thoảng họ đến nhà nhờ khám bệnh và trả ít tiền thù lao.
Nhưng chúng tôi cũng rất sợ, sợ đủ thứ. Đâu có giấy phép khám bệnh?
Bản
chất tôi yếu đuối, nhút nhát, vì thế tôi hay “liều mạng”, liều mạng nhiều vấn
đề trong sinh hoạt. Tôi quen biết và chơi với đủ hạng người trong xã hội: Từ
người đi xe ôm, xe ba gác, các bác nông dân, các nghệ sĩ lang thang nghiệp dư.
Ở đâu tôi cũng quen biết và thân thiện vì thế không có ngày nào là không “uống
rượu”. Đặc biệt là uống rượu đế, có khi lấy cồn pha nước uống.
Tôi
cũng có quen và uống rượu với một số quan chức chính quyền, lực lượng vũ trang
và một số trong ngành pháp luật. Có lẻ những người này họ thương tôi, họ thấy
tôi là người tội nghiệp? Họ là những người thật sự tốt. Nhiều lần họ động viên
nâng đỡ tinh thần tôi khi gia đình tôi có chuyện bi đát.
Trong
vô số “bạn rượu” có một thanh niên tôi quen trong dịp tôi điều trị cho mẹ anh
ta ngộ độc thuốc bóng đèn: Một loại thuốc nam có hạt mã tiền? Anh ta tên H… nhỏ
hơn tôi khoảng 10 tuổi làm nghề theo cha bán vàng tại chợ Thủ Dầu Một. Anh ít
học nhưng khôn ngoan, ngoại giao giỏi, có nghệ thuật chinh phục con người. Anh
quen biết nhiều giới chức. Tôi là một trong những người anh sử dụng! Mỗi tháng
anh đến nhà tôi hoặc tôi đi uống rượu với anh có đến 20 ngày. Khó mà từ chối
mỗi khi anh mời mọc! Mặc dù tôi chưa bao giờ nhận ở anh cái gì hoặc mượn xin
anh đồng bạc nào, dù trong hoàn cảnh lúc đó tôi rất thiếu túng còn anh thì khá
giả giàu có.
Một
buổi sáng sớm, tôi đang ngồi bên ghế đá đặt sát hè nhà bên con rạch đầy rác
rưởi thì H… đến rủ tôi đi thị trấn Đồng Xoài chơi. Suy nghĩ một chút tôi nhớ
đến ông anh ruột đang làm rẫy ở Đồng Xoài, tôi đồng ý đi với anh. Anh chở tôi
bằng xe honda 68 xoáy nòng, xe anh thường đi hàng ngày. Hơn một giờ đi xe chúng
tôi đã đến thị trấn Đồng Xoài. Anh chạy tốc độ kinh khủng!
Đến
Đồng Xoài hơn 8 giờ sáng. Việc đầu tiên là tôi và H… đến thăm anh tôi ở trong
rẫy. Tại đó chúng tôi cùng uống vài xị rượu đế rồi H… chở tôi đi làm công việc
của anh ta. Có lẻ công việc quan trọng về kinh tế? (Mua bán vàng bạc hay lấy
cái gì đó về loại quốc cấm?). Sau này tôi nghe ai đó nói anh lấy sừng tê giác
do gia đình anh mua được để đem về Bình Dương? Tôi không quan tâm và cũng chẳng
hỏi chuyện đó để làm gì? Công việc nhanh gọn chỉ khoảng 10 giờ sáng là xong.
Tôi rủ anh đến thăm người quen của tôi là anh Hoàng Nam lúc đó là y sĩ làm việc
tại bệnh viện huyện Đồng Phú. Hoàng Nam là học trò cũ của tôi tại trường trung
học y tế, anh có phòng mạch tư đông khách. Anh ta tiếp đãi tôi và H… khá trang
trọng bằng cách mời đi tiệm uống bia tha hồ và thức ăn đặc sản thịt rừng. Uống
nhiều thì phải say. Rượu vào thì hay nhớ đến người này người nọ: Tôi rủ H… chở
tôi đến thăm Bác sĩ Lê Thủ, Giám đốc Bệnh viện huyện Đồng Phú. Đến nhà Bác sĩ
Thủ thì ông cũng lịch sự mời chúng tôi uống ít rượu. Bác sĩ Thủ là một người bề
thế, phong thái của người quí tộc, tốt bụng. Lúc đó cũng đã đến giờ Bác sĩ đi
làm nên chúng tôi xin phép ông để về Bình Dương.
Tôi
và H… đều say, nhưng tôi say nhiều hơn, có lẻ vì tuổi tác. Bù lại tôi ngồi sau
xe, ôm hông để H… lái . Xe honda 86 xoáy nòng chạy kinh quá. Chỉ vài vài chục
phút từ thị trấn đồng Xoài chúng tôi đã đến thị trấn Phú Giáo. Đi ngang qua thị
trấn xe chạy chậm. Nhìn thấy cửa hàng ăn nhậu bên đường có mấy bông hoa nhỏ
“xanh xanh, đỏ đỏ” vẫy tay, miệng toe toét mời chào… Chúng tôi đã say quá, đã
uống rượu ba chỗ nhưng lúc đó thì “dân chơi bất cần thân thể”. Chúng tôi tấp
vào quán uống tiếp lần thứ tư! .
Đã hơn
3 giờ chiều, say mèm nhưng cũng phải về nhà thôi. Lên xe tôi ôm eo, đầu gục vào
lưng H... Anh ta chạy hết ga chiếc xe 68.
Về
đến Bưng Cầu tôi đã hơi tỉnh rượu, nghe được tiếng gió rào rào bên tai và thấy
được vài xe vùn vụt đi ngược chiều. Thế rồi tôi nghe cái “rầm”. Tôi mơ hồ biết
là tôi lăn mấy vòng về phía sau trên đường nhựa rồi, không biết gì nữa. Một lúc
sau tôi tỉnh lại, thấy mình nằm bên vệ đường, chung quanh có nhiều người và có
H… cúi xuống gần mặt hỏi tôi gì đó? Sau đó tôi dứng dậy thì bị “sụm” xuống
đường…Rồi đầu óc tôi tỉnh lại, tôi biết tôi vừa té xe, nhưng H… và xe anh ta
không sao cả?! Chỉ có tôi bị chấn thương nặng. Tôi gượng đứng lên lần thứ hai
thì thấy chân trái không trụ được, chân phải vẫn đứng vững. Nhìn gối trái tôi
thấy sưng to, tôi thử để chân trái xuống lần nữa, đau kinh khủng! Thế là tôi cà
nhắc, cố lên sau xe của H… để anh ta chở về nhà .
Về
đến nhà tôi đã tỉnh rượu. Từ cổng tôi la to: “Em ơi anh gãy chân rồi” Vợ tôi
hốt hoảng ra xem và dìu tôi vào nằm trong giường. Bà ấy thấy tôi xanh quá, yếu
quá nên đến báo với bác sĩ Vũ Tánh, Giám đốc Bệnh viện Tỉnh về tai nạn của tôi.
Lúc đó đã hơn 6 giờ chiều; Bác sĩ Tánh đến ngay để xem tôi thế nào? Ông rất quý
và thương mến gia đình chúng tôi (vợ chồng tôi đã làm việc với ông gần 15 năm
tại bệnh viện tỉnh). Ông lớn tiếng la H… với sự giận dữ là chở tôi đi uống rượu
để tôi bị tai nạn (ông sốt ruột vô lý nhưng cũng vì lo cho gia đình nheo nhóc
của tôi). Thế rồi ông gọi xe cấp cứu bệnh viện Tỉnh chở tôi xuống bệnh viện
chấn thương chỉnh hình thành phố HCM để khám cấp cứu điều trị chấn thương đầu
gối trái của tôi .
Hơn
9 giờ tối xe đưa tôi đến phòng khám bệnh cấp cứu của Bệnh viện chấn thương
chỉnh hình. Mặc dù tôi đã nghĩ việc gần một năm nhưng giấy giới thiệu thì ông
Giám đốc vẫn ghi chức vụ là đang công tác tại Bệnh viện Tỉnh. Tôi nằm chờ ở
phòng bệnh nhân một lúc lâu rồi có “ai đó” khám sơ sài cho tôi và viết một tờ
giấy đi chụp X -Quang đầu gối trái.
Tôi
được đỡ lên băng ca, ông hộ lý chở tôi từ chỗ khám bệnh đến khoa X-Quang trên
con đường gập ghềnh. Tôi vô cùng đau đớn cái đầu gối trái. Nằm trên băng ca tôi
tự hỏi ông hộ lý “trả thù” việc “bắt” ông chở tôi trong đêm khuya với chỉ mấy
đồng lương còm? Ông cứ đẩy xe vào các chỗ lòi lõm để làm gì?
Nghĩ
thế nên khi chụp X-Quang xong tôi dúi vào tay ông 50 đồng. Lần đẩy xe về tôi
nằm trên xe êm ái.
Về
lại chỗ nhận bệnh: “Ai đó” xem hình X-quang và nói với tài xế (Tôi đi một mình
với tài xế bệnh viện tỉnh vì vợ tôi phải ở nhà với 3 con nhỏ): Cho bệnh nhân về
nhà mai xem lại ?!
Xe
cứu thương bệnh viện lại chở tôi về Bình Dương. Trên xe tôi vô cùng chán nản.
Tôi từ chối nằm bệnh viện tỉnh. Tôi bảo tài xế chở tôi về nhà với cái đầu gối
trái sưng to, đau đớn vô cùng. Vợ tôi cho tôi uống kháng sinh, giảm đau, an
thần và thuốc tan máu bầm. Tôi nghĩ cứ ở nhà “kệ mẹ nó” chết cũng chẳng sao!
Nhưng đâu dễ chết ?
Sáng hôm sau có “thần hộ mạng” đến tận nhà giúp đỡ điều trị chấn thương
đầu gối trái cho tôi (làm thủ thuật , hút máu và bó bột …) Hai tháng sau tôi
lành bệnh. Tôi sẽ viết “ông thần hộ mạng” trong một tự truyện khác.
19-19-06
Đầu
năm 2003 tôi có cảm giác phần da cổ phía trái dưới mang tai của tôi nề nề, có
lẻ hơi dầy hơn da cổ bên kia. Tôi thường nhẹ nhàng sờ vào phần da đó, kể cả
những lúc tôi đang làm việc. Vài tháng sau tôi lại sờ thấy một khối u nhỏ bằng
đầu ngón tay út dưới mang tai trái. một chút bối rối tôi tự chẩn đoán bệnh cho
mình: Hạch cổ nhiễm trùng. Nhưng nhiễm trùng gì?.. Tôi suy nghĩ mãi rồi tự nhủ:
Nhiễm trùng thì không quan trọng, dĩ nhiên nếu có ổ nhiễm trùng thì từ cổ họng
trở lên, thôi thì cứ uống thuốc kháng sinh và chống viêm vậy. Cứ thế tôi uống
thuốc cả năm 2003 nhưng cái bướu thì ngày càng lớn, chỉ có điều là có lúc sờ vào
bớt đau, mềm hơn. Cũng mừng. Thế nhưng tôi vẫn suy nghĩ miên man: Nào là Lao
Hạch, nhưng không đúng: Lao Hạch thì ở vị trí khác và ít nhất là vài hạch, chạy
dọc theo cái cổ xuống gần xương đòn, hạch phải mềm, đau. Ung thư Hạch?.. Cũng
không đúng, phần đông là ở vị trí gần xương đòn, mật độ cứng, chắc…Hay di căn
Hạch do Ung Thư? Nhưng Ung Thư gì?.. Đi khám bệnh làm sinh thiết thì tôi quá
“hãi” các bệnh viện và các Bác sĩ! Cứ để bừa như thế đến đâu hay đó. Phần đông
các Bác sĩ thời chúng tôi có bệnh thì tự trị lấy.
Cái
bướu của tôi càng ngày càng lớn, từ năm 2003 đến năm 2005 nó cứ thay đổi hình
thái và đau nhức thất thường, có lúc nhỏ bằng đầu ngón tay cái, có lúc to bằng
trái chanh, có lúc tự nhiên đau đớn, có lúc sờ ấn vào cũng không đau, lúc cứng,
lúc mềm! Trong 2 năm tình trạng cứ thế. Tôi uống thuốc tính bằng giỏ, trong
người tôi có lẻ đã trở thành một phòng bào chế thuốc, đủ mọi thứ, các loại
thuốc tương tác nhau mọi chiều!
Giữa năm 2005 tôi không chịu nổi nữa! Thôi đành
tính chuyện cắt bỏ cái bướu, làm sinh thiết; Nhưng ai cắt bỏ bướu cho tôi?
Trong các đồng nghiệp, người tôi tin tưởng nhất là Bác sĩ Huỳnh Thị Kim Chi,
chuyên khoa phụ sản! Có tay nghề gần 30 năm, dưới mắt tôi Bác sĩ là một người
thầy thuốc mẫu mực, hết sức đứng đắn trong nghề nghiệp. Bác sĩ có vóc dáng
thanh nhã, nhỏ nhắn, vẻ đẹp của người trí thức Phương Tây, làm việc thì hết
mình, công việc càng khó khăn càng đam mê. Bác sĩ đã từng làm Trưởng khoa sản
tại bệnh viện Tỉnh nhiều năm, được các đồng nghiệp và các cấp dưới kính mến, được
cấp trên tín nhiệm với các cương vị khác
như Trưởng Trạm Bảo Vệ Bà Mẹ Trẻ Em, Sanh Đẻ Kế Hoạch Hóa Gia Đình…Đến nay thì
Bác Sĩ tổ chức, xây dựng một bệnh viện lớn Phụ Sản-Nhi Tư Nhân ở Tỉnh. Nói là
đồng nghiệp nhưng tôi chỉ là một “ thầy lang vườn” Còn Bác sĩ thực sự là một
thầy thuốc tiến hoá trước tôi! Đối với tôi Bác sĩ là người dày dạn trong nghề
nghiệp, nhiệt tình với bệnh nhân, dám làm, không ngại khó, trực tiếp phẩu thuật
những trường hợp khó trong sản khoa, đặc biệt là tính quyết đoán, tự tin, không
xu nịnh, không làm trái với nghề nghiệp để vừa lòng người khác…Thế nên có số ít
người đồn đại Bác sĩ là người khó tính, hách dịch….Ngoài những đức tính đó Bác
sĩ là một Bác sĩ sản khoa giỏi. Tôi không biết nhiều về Bác sĩ nhưng lòng tin
của tôi là như thế, hơn nữa tôi đang là “một bệnh nhân” tín nhiệm “một thầy
thuốc”.
Qua
lời thỉnh cầu của vợ tôi, Bác sĩ nhận mổ TỪ THIỆN “Cái Bướu” cho tôi chi phí
Bác sĩ chịu hoàn toàn! Tôi đến bệnh viện phụ sản, các bệnh nhân chờ khám thấy
lạ, có lẻ họ nghĩ tôi là một ông già “đi triệt sản”?! Tôi có tính hài hước nên
cố tình đi khệnh khạng, đi hàng hai làm như bị cái gì đó ở bộ phận sinh dục nữ.
Vào phòng mổ: Bác sĩ đã chuẩn bị sẵn mọi thứ…Kể cả dịch truyền và có chuyên
viên gây mê để nếu cần thì xử lý…Việc mổ cái bướu dưới hàm của tôi chỉ cần gây
tê…Nhưng ngộ nhỡ? Bác sĩ thật cẩn thận!
Sau
khi gây tê, rạch da, Bác sĩ tìm tòi không thấy “cái bướu” ở đâu? Mặc dù trước
đó Bác sĩ đã “tóm” cái bướu trong chiếc kẹp phẩu thuật. Tôi nghe được dụng cụ
tìm cái bướu rà vài lần trong khoang mổ; Chỉ trong khoảnh khắc Bác sĩ “chộp”
được thủ phạm. Tôi nghe Bác sĩ nói: “Nó đã bể”. Bác sĩ kẹp cái bướu đưa tôi xem
và nói “Cái bướu đã bể nhưng may mà trong bướu có ít nước, có lẻ Bướu lành”.
Còn tôi thì thoáng nhìn thủ phạm đã hành hạ tôi hơn 2 năm, với cảm giác ghê
tởm: Nó không phải cái bướu, nó là một miếng thịt bầy nhầy, dị dạng, lổ chổ như
tổ ong…Cái gì vậy?...Trong phút chốc tôi cố không nghĩ đến nó. Vết mổ được đóng
kín lại, siết rất chặt, tự tay Bác Sĩ cột chỉ (mặc dù có Bác Sĩ phụ mổ). Thế là
tôi đã xong món nợ dưới mang tai! Tôi bận nguyên bộ đồ mổ bảo vợ chở về nhà
thay đồ mổ đem trả bệnh viện Phụ Sản. Tôi chỉ còn chờ kết quả giải phẩu bệnh?
Tôi
về đến nhà lúc 3 giờ chiều, đến 5 giờ hôm đó thì vết mổ hành hạ tôi khủng
khiếp: Sự căng cứng cái cổ bên trái muốn đẩy cái đầu tôi về phía phải, tôi
không chịu nổi, vết mổ càng lúc càng căng phồng, rất đau... Tôi suy nghĩ và tự
hỏi: Tại sao? Tại sao? Hay là đứt cái động mạch nào? Tôi không thấy có triệu
chứng “Giẩy chết”, tôi chỉ thấy quá căng thẳng phía cái cổ trái. Tôi nằm xuống
chiếc ghế dài có thành tựa, chúi đầu về phía trái, cổ trái tựa vào vai trái:
Máu từ vết mổ tràn ra ướt cả cổ áo sơ mi, ướt thấm vai áo, máu thấm ngược lên
mái tóc lùng xùng (tôi để râu và tóc dài kiểu bụi đời, không soi gương nhưng
tôi biết lúc đó trông tôi ghê tởm lắm, vì tôi có gương mặt xương xẩu, đen đủi,
xấu xí). Tôi thấy dễ chịu, ngồi dậy thay áo tiếp tục làm việc. Vợ tôi có vẻ lo
lắng, con tôi, Thái Sơn đang học ở Sài Gòn điện về hỏi xem ba nó “có sao” không?
Tôi trả lời:” Có gì đâu! Ba khó chết lắm”. Tôi hơi mệt, nhưng tôi biết không
sao. Tôi đã có quá nhiều lần mệt hơn thế này nhưng có sao đâu? Vài ngày sau máu
vẫn rỉ rả từ vết thương nhưng ít hơn, mỗi ngày thay băng vài lần là xong ! Tôi
uống kháng sinh liên tục, dùng liều cao…Hơn 15 ngày vết mổ vẫn không liền sẹo,
máu vẫn rỉ rã. Thật lạ? Tôi sử dụng các loại kháng sinh thế hệ mới nhưng sao
vết sẹo vẫn không lành? Thôi thì cứ kiên trì chờ đợi: Chờ đợi vết mổ lành và
chờ đợi kết quả giải phẩu bệnh.
Một
buổi trưa vợ chồng tôi không ngủ được, mỗi người có một suy nghĩ, riêng tôi
nghĩ đến “cái chết”. Một giờ 30 chiều vợ tôi đi lấy kết quả giải phẩu bệnh. Tôi
đón vợ từ ngoài cổng, kết quả giải phẩu bệnh về cái bướu của tôi loại lành tính
có cái tên thật hoa mỹ “Bướu Hoa tinh (Warthin) lành tính, bướu tuyến nước bọt
dưới mang tai”. Chúng tôi mừng quá… Thế nhưng chuyện “Cái Bướu” chưa xong?! Sau
3 tuần vết mổ hết rỉ máu nhưng hỡi ôi! Thay máu hồng là nước trong veo từ vết
mổ nhỏ giọt mỗi khi tôi uống nước hoặc ăn cơm, mỗi lần dùng cơm thì vợ tôi ngồi
bên thấm nước. Cứ như thế trong 2 tháng. Tôi bắt đầu chán nản, không muốn uống,
không muốn ăn. Tôi nói với vợ: “Bỏ mẹ, lổ dò rồi em ơi”. Lổ dò thì khó lành, có
thể phải chịu như vậy suốt đời hoặc phải cấy ghép, chỉnh hình? Vợ tôi buồn bã,
tôi động viên: “Không sao đâu, cứ coi như làm Trachéotomie bị lổ dò, có sao
đâu?” Vợ tôi lại bảo tôi: “Anh đừng nói gì với Bác sĩ là bị lổ dò, cứ nói tốt,
lành hoàn toàn, để rồi mình tính sau…” Đương nhiên là như thế, từ trước tôi đã
kính mến Bác sĩ, làm sao tôi có thể quấy rầy Bác sĩ thêm nữa trong khi Bác sĩ
đã tận tình giúp đỡ tôi.
ĐOẠN KẾT :
Tôi
có niềm tin sâu sắc về Ông Táo! Chúng tôi luôn tâm niệm Ông Táo là nồi cơm của
cả gia đình. Hơn 10 năm nay, mỗi mùa xuân về, ngày 23 tháng chạp đưa Ông Táo về
trời tôi đều viết Sớ Táo Quân trình Thượng Đế báo cáo mọi việc trong năm và đề
đạt nguyện vọng ; Thật lạ, là tất cả nguyện vọng của tôi đều được Thượng Đế
(Thông qua Táo Quân) đáp ứng gần 100%. Trọng tâm khẩn cầu của tôi với Thượng Đế
là “Gia Đình Bình Yên”. Cả gia đình tôi rất tin Ông Táo, vì thế lúc gặp nguy
khốn về lổ dò tuyến nước bọt dưới mang tai của tôi đã hơn 2 tháng không lành,
tôi vái Ông Táo, tôi thắp một cái nhang vào lư hương Ông Táo nghiêng cái cổ có
lổ dò vào sát cái nhang, khấn với ông: “Ông Táo ơi sao tôi khổ quá, Ông làm sao
bít cái lổ dò ở cổ của tôi”. Kỳ lạ thay 3 ngày sau lổ dò tự bít?... Sau đó 10
ngày, ngày 1 tháng 10 năm 2005 tôi thấy thoải mái, dự đám cưới của con trai tôi
là Nguyễn Thái Sơn và cô Nguyễn Ngọc Chánh. Có lẽ đó là quà tặng của “Cụ Táo”
cho con trai tôi.
VVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVVV
18 – 08 – 2006.
Vài năm trước đây, một buổi sáng tôi
đang khám bệnh tại nhà thì ông Năm, người tôi quen biết đã nhiều năm đến hỏi
tôi một số vấn đề về bệnh tật. Tôi giải thích yêu cầu của ông xong thì ông đưa
cho tôi một cái gạt tàn thuốc làm bằng đất nung thô sơ. Nhìn qua, tôi thấy nửa
mặt trên cái gạt tàn được tạo hình bản đồ Việt Nam sơn màu xanh nước biển có 3
ngôi sao màu đỏ tại 3 vị trí Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Nửa mặt còn lại được nối
theo vòng cung khép kín với nửa đối diện để tạo dáng cái gạt tàn, nửa mặt này
có 3 rãnh để được 3 điếu thuốc, cái gạt tàn cao đúng 4 cm. Tôi nghĩ ông Năm đưa
cho tôi xem cái gạt tàn ông vừa mua để dùng? Tôi chưa kịp hỏi thì ông đã nói:
Có người tặng tôi, nhờ ông đưa đến. Khi đó tôi mới nhìn kỹ cái gạt tàn thì thấy
phía phần cong tạo hình bản đồ Việt Nam bên thành cái gạt tàn có 5 chữ to đề
tặng : Kính Tặng Bác Sĩ Tờn, cuối tên tôi có dấu hiệu chữ thập sơn màu đỏ, năm
chữ ghi tặng thì được sơn dầu màu tím.
Thấy tôi ngạc nhiên thì ông Năm nói: Cái gạt tàn
là của một bệnh nhân đã được tôi khám bệnh cách đây hơn 20 năm. Bệnh nhân đã
chết hơn 2 năm nay! Tôi hỏi ông Năm tại sao bệnh nhân đã chết hơn 2 năm còn đem
cái gạt tàn tặng tôi, và lý do nào tôi có quà tặng đó? Ông vắn tắt câu chuyện
như thế này: Lời ông Năm “Hơn 20 năm trước tôi khám tư tại nhà chị y tá trưởng
của khoa tôi phụ trách thì có một bệnh nhân đến khám và nói với tôi là ông ta
có quá nhiều bệnh tật nhưng quá nghèo không có tiền để đi khám bệnh! Nghe nói
tôi “ăn” rẻ nên bạo dạn đến khám bệnh. Tôi khám cho ông và nói: Không có tiền
vẫn khám bệnh, vẫn có thuốc để uống, có thầy thuốc nào mà không khám bệnh cho
người bệnh không có tiền đâu?” (có lẻ lúc đó tôi khám cho ông và kiếm ít thuốc
gì đó cho ông uống - dĩ nhiên là tôi không nhận tiền thù lao va tiền thuốc).
Hồi trẻ tôi vẫn giải quyết vấn đề như thế.
Từ năm 1979 tôi liều mạng khám tư ngoài
giờ với mục đích chỉ để kiếm tiền đủ ăn cho gia đình tôi gồm hai vợ chồng đi
làm tại bệnh viện và một đứa con mới một tuổi. Thời bao cấp nhưng tôi dám “tự
cứu lấy mình”.
Chỉ một câu nói thông thường với ông bệnh nhân,
thế mà sau đó ông về nhà nắn một cái gạt tàn bằng đất nung có chữ đề tặng tôi!
Thế nhưng không hiểu sao mấy chục năm qua người bệnh không đem cái gạt tàn
thuốc tặng tôi? Có lẻ ông Năm biết tôi tự hỏi tại sao người chết đã hơn 2 năm
còn gởi cái gạt tàn tặng tôi? Thế nên ông nói rỏ thêm: “Sau hơn 2 năm bệnh nhân
qua đời, người vợ dọn dẹp đồ cũ của chồng, thấy có cái gạt tàn đề tặng tôi nên
nhờ ông Năm đem đến cho tôi”. Tôi có hỏi tên và địa chỉ của bệnh nhân với ý
muốn đến thăm gia đình người đã khuất nhưng không hiểu sao bao năm nay tôi lại
không làm được? Tôi vẫn để cái gạt tàn đâu đó trong nhà, thỉnh thoảng cũng dùng
đến, lại nhớ người “sau khi đã khuất” tặng tôi món quà đó. Tôi có vẻ bất an!!!
Sáng nay 17/09/2006 tôi quyết định đi tìm nhà ông
tặng tôi cái gạt tàn để thắp cho ông một nén nhang. Nhưng biết nhà ông ở đâu?
Tôi cũng không biết nhà ông Năm. Thôi thì chịu khó tìm người thứ 3 vậy!
Từ 9 giờ sáng tôi đi tìm nhà Bác Ba Sơn là bạn ông
Năm. Tôi tìm đến nhà Bác ấy, nói là thăm hai Bác và thăm nhà mới, nhưng thực
chất là hỏi nhà ông Năm và tiếp theo sẽ hỏi nhà người thứ ba tôi cần tìm với ý
nguyện biết tên ông ấy và thắp cho ông ấy nén nhang như đã dự định từ mấy năm
nay. Tôi tìm được nhà ông Năm. lại như tình cờ ghé thăm, hỏi “năm điều ba
chuyện” về gia đình, đời sống của ông rồi làm như tình cờ hỏi tên và địa chỉ
người tặng tôi cái gạt tàn do ông Năm đem đến! Nhưng tiếc thay ông Năm nói là
ông đã quá già và hoàn toàn không nhớ việc ấy. Ông quên cả việc đưa tôi cái gạt
tàn thuốc!
Tôi thất vọng trở về nhà thì đã hơn 11 giờ trưa,
vợ tôi đang chờ cơm. Tôi ngồi dùng cơm trưa mà cứ nghĩ đến cái gạt tàn thuốc.
Tôi không nghỉ trưa như thường lệ. Từ 12 giờ trưa đến 7 giờ tối đầu óc tôi cứ
váng vất cái gạt tàn thuốc. 7 giờ tối tôi quyết định viết lại câu chuyện làm
tôi suy nghĩ hơn 3 năm nay.
Trong lúc viết câu chuyện này thì cái gạt tàn
thuốc bằng đất nung thô đang nằm trên bàn viết, trước mắt tôi. Chốc chốc tôi
ngừng viết cầm cái gạt tàn gõ gõ mặt đất nung phía dưới, không hiểu sao mấy
tháng trước tôi gõ như thế thì nghe “lẹp bẹp” như sắp bể, mà bây giờ tôi gõ đến
3 lần vẫn nghe âm thanh chiếc gạt tàn còn chắc???
Tôi quyết định viết xong mấy dòng tự truyện này
tôi sẽ đi rữa sạch cái gạt tàn thuốc, gói lại, để đâu đó. Mặc dầu tôi hiểu cái
gạt tàn thuốc rồi cũng có lúc trở về “cát bụi” như cuộc sống của mọi người.
Nhưng tôi cứ quyết định như thế.
17 – 09 – 2006.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét