Thứ Tư, 20 tháng 9, 2023

Nhớ giáo sư Phạm Biểu Tâm, người VN đầu tiên làm khoa trưởng khoa Y, Đại học Y khoa Sài Gòn.

 

Nhớ giáo sư Phạm Biểu Tâm, người VN đầu tiên làm khoa trưởng khoa Y, Đại học Y khoa Sài Gòn. Thày có bao công lao trong mấy chục năm xây dựng trường và đào tạo những thế hệ bác sĩ tài năng và đức độ cho đất nước.
"Giáo sư Phạm Biểu Tâm sinh ngày 13/12/1913. Quê quán làng Nam Trung, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình khoa bảng. Cụ cố là Tổng binh Phạm Tấn, gốc miền Nam, quê quán làng Long Phú (Bến Lức, Gò Công), tỉnh Gia Định. Được vua Gia Long vời ra làm quan ngoài Bắc Hà (Ninh Bình và Nam Định). Cụ nội là Phạm Năng Tuần, tước hiệu Hàn Lâm Viên Đại Phu. Cụ khai khẩn và thành lập làng Nam Trung, tỉnh Thừa Thiên cho các quan gốc miền Nam ra Trung. Cụ thân sinh là Phạm Hữu Văn, thi đậu Tiến sĩ khoa Quí Sửu 1913. Làm quan tới chức Bố Chánh tỉnh Thanh Hóa, được thăng Thượng Thư Trị Sứ khi đã về hưu.”
Giáo sư Phạm Biểu Tâm học tiểu học tại Huế, trung học phổ thông tại Vinh, rồi trường Quốc Học Huế, và trường Bưởi Hà Nội.
Suốt thời tuổi trẻ, Giáo sư Phạm Biểu Tâm đã là một hướng đạo sinh, rất hoạt động trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng của đất nước. Ông gia nhập tráng đoàn Lam Sơn của Hoàng Đạo Thúy, từ những năm 1930 từng tham dự khóa huấn luyện Tráng tại Bạch Mã, Huế. Có thể nói suốt cuộc đời, ông vẫn gắn bó với phong trào hướng đạo Việt Nam và vẫn cứ mãi là một tráng sinh lên đường
Năm 1932, thầy Tâm theo học Trường Y Khoa Hà Nội, sau Bác sĩ Tôn Thất Tùng một năm. Sau khi tốt nghiệp y khoa, vẫn tiếp tục tình nguyện ở lại làm Nội Trú Bệnh Viện thêm 8 năm. Mãi tới năm 1947 mới trình luận án Tiến Sĩ Y Khoa với đề tài mang tính văn hoá: “Introduction de la Médecine Occidentale en Extrême-Orient / Sự Du Nhập của Y học Tây Phương sang Viễn Đông”.
Nói về đời sống gia đình, Giáo-Sư Phạm Biểu Tâm đã kết hôn với Bà Công Tằng Tôn Nữ Tuyết Lê vào năm 1944, nguyên là nữ sinh trường Đồng Khánh rất cấp tiến. Thầy Cô có năm người con, ba trai hai gái theo thứ tự: Phạm Biểu Trung, Phạm Biểu Chí, Phạm Biểu Kim Hoàn, Phạm Biểu Kim Liên và Phạm Biểu Tình nhưng tên gọi ở nhà thì chỉ là tên các vật liệu trong phòng mổ: Bông, Gạc, Băng, Kim, Chỉ. Thầy cô còn có thêm một dưỡng nữ Trần Thị Hồng.
Năm 1948, Giáo Sư Phạm Biểu Tâm trúng tuyển kỳ thi Thạc Sĩ Y Khoa [Professeur Agrégé des Universités] tại Paris, đồng thời với Giáo sư Trần Quang Đệ cũng là một bác sĩ phẫu thuật lừng danh tại Bệnh viện Chợ Rẫy sau này. Trở về nước, thầy Tâm tiếp tục giảng dạy tại Đại Học Y Khoa Hà Nội kiêm Giám Đốc Bệnh Viện Yersin hay còn gọi là Nhà Thương Phủ Doãn cho đến ngày ký kết Hiệp định Genève 1954 phân đôi đất nước.
Năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập, cũng khởi đầu ngành Quân Y Việt Nam 1951, Gs Phạm Biểu Tâm có thời gian đảm trách chức vụ Phó Giám Đốc Trường Quân Y với cấp bậc Trung Tá.
Năm 1954, Giáo-Sư Phạm Biểu Tâm đã cùng gia đình di cư vào Nam, được đề cử làm Giám Đốc Bệnh Viện Bình Dân mới xây cất xong trên đường Phan Thanh Giản Sài Gòn, đồng thời cũng là Trưởng Khu Ngoại Khoa tại bệnh Viện này. Đa số nhân viên y tế từ nhà thương Phủ Doãn di cư vào Nam đều trở lại làm việc tại bệnh viện Bình Dân. Đây cũng là một bệnh viện giảng huấn trực thuộc trường Đại Học Y Nha Dược duy nhất của Miền Nam Việt Nam thời bấy giờ.
Khi Đại Học Hỗn Hợp Pháp Việt được người Pháp trao trả lại cho Việt Nam [11.05.1955], Giáo-Sư Phạm Biểu Tâm được đề cử làm Khoa Trưởng, và là vị Khoa Trưởng đầu tiên của Trường Đại Học Y Dược Sài Gòn [Faculté Mixte de Médecine et Pharmacie].
Năm 1962, Hiệp Hội Y Khoa Hoa Kỳ / American Medical Association [AMA] đã viện trợ một ngân khoản lớn cho Việt Nam để xây cất một Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa với tiêu chuẩn hiện đại tại đường Hồng Bàng, Chợ Lớn, gồm một Trường Y Khoa [giai đoạn I] và một Bệnh Viện thực tập [giai đoạn II]. Lễ đặt viên đá đầu tiên do Tổng Thống Ngô Đình Diệm chủ tọa.
Sau biến cố 1963, Gs Phạm Biểu Tâm tiếp tục ở lại với Trường Y Khoa cho đến tháng 3 năm 1967, khi tướng Nguyễn Cao Kỳ, lúc đó là Chủ tịch Uỷ ban Hành pháp Trung ương đã đơn phương ký sắc lệnh giải nhiệm chức vụ Khoa Trưởng của Gs Phạm Biểu Tâm để thay thế bằng một Uỷ ban 5 người, đây cũng là lần đầu tiên ở miền Nam chính trị can thiệp vào nền tự trị đại học. Từ nhiệm chức Khoa trưởng, thầy Tâm vẫn cứ ẩn nhẫn, tiếp tục công việc của một Giáo sư Giải phẫu, giảng dạy và điều trị mổ xẻ tại Khu Ngoại Khoa B Bệnh viện Bình Dân.
Cùng lúc với Dự án của Hiệp Hội Y khoa Hoa Kỳ / AMA Project, kết hợp với trường Y khoa Sài Gòn để cải tiến các bộ môn từ khoa học cơ bản tới các khoa lâm sàng như nội khoa, sản phụ khoa, nhi khoa, giải phẫu, gây mê, quang tuyến… với kế hoạch vừa huấn luyện tại chỗ vừa gửi nhân viên giảng huấn sang tu nghiệp tại các Đại học Hoa Kỳ. Đây là giai đoạn thầy Tâm đã bỏ ra rất nhiều công sức để phát triển chương trình đào tạo thêm nhân viên giảng huấn Khoa Giải phẫu cho trường Y khoa.
Sự hợp tác giữa giáo sư Henry Bahnson danh tiếng từ Đại học Pittsburgh và Gs Phạm Biểu Tâm tại Bệnh viện Bình Dân được coi là thành công nhất trong số những chương trình được AMA bảo trợ.
Sau 1975, Giáo sư Phạm Biểu Tâm vẫn sống hết lòng cho y nghiệp, thương mến chăm sóc bệnh nhân không phân biệt giàu nghèo, hay màu sắc chính trị nào. Thầy Tâm tiếp tục công việc dìu dắt giảng dạy nhiều thế hệ sinh viên y khoa. Như từ bao giờ, thầy Tâm thâm trầm, nhưng cương nghị, làm nhiều và ít nói. Trong nghịch cảnh, thầy không bao giờ biểu lộ sự giận dữ, vẫn nhỏ nhẹ nhưng thâm thuý và sâu sắc, câu nói giản dị của thầy vẫn cứ mãi được truyền tụng trong đám môn sinh: “cố gắng làm việc, lấy chăm sóc bệnh nhân làm nhiệm vụ trước mắt của người thầy thuốc.”
Năm 1984, Giáo sư Phạm Biểu Tâm buộc phải nghỉ hưu ở tuổi 71 sau một cơn tai biến mạch máu não/ stroke với liệt nửa người trái. Không có cơ hội hồi phục, năm 1989 Giáo sư Phạm Biểu Tâm đã phải rời bỏ quê hương yêu dấu, nơi mà Giáo sư đã dâng hiến gần trọn cuộc đời cho người bệnh, cho nền y học Việt Nam, để sang đoàn tụ với các con tại Hoa Kỳ.
Giáo sư mất ngày 11 tháng 12 năm 1999 tại Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi."
(Theo tư liệu gia đình và tư liệu của học trò của thày Tâm là Ngô Thế Vinh)
Hình thày Tâm và học trò
Hình thày cô và gia đình
Hình thày trong lễ trình luận án TN của 1 sinh viên y khoa
Hình thày tham gia hội nghị quốc tế
Hình thày và các đồng nghiệp tại trung tâm y khoa tại tiểu bang Minesota Mỹ năm 1960








Huân chương Hữu nghị cho người giúp Việt Nam có hàng triệu liều vắc xin COVID-19

 DUY LINH

Thủ tướng Phạm Minh Chính cảm ơn bà Aurélia Nguyễn và trao Huân chương Hữu nghị vì những hỗ trợ quý báu của nữ giám đốc người Pháp gốc Việt trong dịch COVID-19.

Thủ tướng Phạm Minh Chính trao Huân chương Hữu nghị cho bà Aurélia Nguyễn - Ảnh: NHẬT BẮC

Thủ tướng Phạm Minh Chính trao Huân chương Hữu nghị cho bà Aurélia Nguyễn - Ảnh: NHẬT BẮC

Sáng 20-9 (giờ New York, tức tối cùng ngày giờ Việt Nam), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tiếp bà Aurélia Nguyễn, giám đốc chiến lược Chương trình Liên minh toàn cầu về vắc xin và tiêm chủng (GAVI).

Bà Aurélia Nguyễn là một trong những lãnh đạo quan trọng về chiến lược, chính sách trong lĩnh vực vắc xin trên toàn cầu. Bà là người Pháp gốc Việt, dành nhiều cảm tình đối với quê hương Việt Nam.

Trong khi đó, GAVI là một trong ba cơ quan, tổ chức điều phối Sáng kiến tiếp cận công bằng vắc xin COVID-19 (COVAX).

Trong thời gian Việt Nam và thế giới đang đương đầu với COVID-19, bà Aurélia Nguyễn đã thường xuyên gọi điện và gửi thư tới lãnh đạo cấp cao Việt Nam.

COVAX đã hỗ trợ miễn phí cho Việt Nam hơn 70 triệu liều vắc xin COVID-19, vượt xa mức cam kết COVAX dành cho Việt Nam là 38,9 triệu liều.

Tại buổi tiếp ở New York, Thủ tướng Phạm Minh Chính cảm ơn bà Aurélia Nguyễn đã có những hỗ trợ hết sức quý báu đối với Việt Nam trong giai đoạn khó khăn nhất của đại dịch COVID-19.

Thủ tướng đề nghị GAVI và cá nhân bà Aurelia Nguyễn tăng cường hỗ trợ Việt Nam tiếp cận vắc xin phòng chống các dịch bệnh, xây dựng chiến lược, kế hoạch nâng cao tiêm chủng mở rộng và tiếp nhận chuyển giao công nghệ vắc xin mRNA.

Thủ tướng cũng mong bà Aurélia Nguyễn giúp kết nối với chuyên gia, tổ chức và doanh nghiệp nước ngoài có uy tín, sẵn sàng hợp tác, tạo thuận lợi chuyển giao công nghệ, kỹ năng sản xuất sinh phẩm, vắc xin cho đối tác Việt Nam.

Thủ tướng Phạm Minh Chính mong bà Aurélia Nguyễn tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong thời gian tới - Ảnh: NHẬT BẮC

Thủ tướng Phạm Minh Chính mong bà Aurélia Nguyễn tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong thời gian tới - Ảnh: NHẬT BẮC

Bà Aurélia Nguyễn bày tỏ ấn tượng mạnh mẽ với việc Việt Nam từ nước đang đối mặt với nhiều khó khăn do dịch bệnh COVID-19 mà chỉ sau một thời gian ngắn đã thành quốc gia có độ bao phủ vắc xin cao nhất thế giới, đồng thời nhanh chóng phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Bà Aurélia Nguyễn mong muốn hai bên tiếp tục hợp tác để sản xuất vắc xin chống các loại dịch bệnh trong thời gian tới. Bà khẳng định đang và sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam triển khai các chương trình tiêm chủng đối với các bệnh thông thường.

Nhân dịp này, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã trao cho bà Aurélia Nguyễn Huân chương Hữu nghị của Nhà nước Việt Nam.

Đây là sự ghi nhận và đánh giá cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam về những hỗ trợ quan trọng của bà vì những hỗ trợ trong lúc Việt Nam đối mặt nhiều khó khăn do COVID-19.

Giám đốc chiến lược của GAVI bày tỏ niềm vinh dự được nhận huân chương cao quý của Nhà nước Việt Nam.

Bà khẳng định sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ và hiệu quả với ngành y tế Việt Nam, trong đó có tiến tới loại trừ bệnh sởi và bệnh rubella, tăng cường chất lượng tiêm chủng, hỗ trợ dây chuyền lạnh bảo quản vắc xin.

Thủ tướng: Hợp tác kinh tế là động cơ vĩnh cửu thúc đẩy quan hệ Việt - MỹThủ tướng: Hợp tác kinh tế là động cơ vĩnh cửu thúc đẩy quan hệ Việt - Mỹ

Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa có bài phát biểu chính sách đáng chú ý tại Đại học Georgetown, thủ đô Washington (Mỹ).

Thứ Hai, 11 tháng 9, 2023

[F.A.S.T] – DẤU HIỆU NHẬN BIẾT NGƯỜI BỊ ĐỘT QUỴ

 ĐỘT QUỴ (còn gọi là Tai biến mạch máu não) là tình trạng não bộ bị tổn thương nghiêm trọng do quá trình cấp máu cho não bị gián đoạn. Bệnh có thể gây ra nhiều biến chứng như liệt nửa người, rối loạn ngôn ngữ,… và nghiêm trọng nhất là TỬ VONG.

Trong trường hợp nghi ngờ đột quỵ, sử dụng từ viết tắt FAST để giúp ghi nhớ các dấu hiệu cảnh báo: Face (mặt), Arms (tay), Speech (lời nói) và Time (thời gian).

Hai dạng đột quỵ

 

ĐỘT QUỴ có thể xảy ra bất kỳ lúc nào và bệnh nhân cần được cấp cứu CÀNG SỚM CÀNG TỐT.

Để nhận biết một người có bị ĐỘT QUỴ không, hãy ghi nhớ sử dụng quy tắc F.A.S.T:

 

Quy tắc F.A.S.T (nguồn ảnh: BV Đột quỵ Tim mạch Cần Thơ)

  • F (face): Khuôn mặt bị mất cân đối, yếu liệt mặt, một bên mặt bị chảy xệ, cười méo mó. Có thể bảo bệnh nhân cười và quan sát.
  • A (arm): Cử động khó khăn hoặc không thể cử động tay chân, yếu liệt một bên cơ thể. Hãy bảo bệnh nhân giơ tay lên và so sánh, nếu hai tay không thể nâng qua đầu cùng lúc thì có khả năng người đó bị đột quỵ.
  • S (speech): Giọng nói bị thay đổi, nói ngọng, dính chữ. Có thể yêu cầu người đó nói những câu đơn giản, nếu không thể nhắc lại được thì người đó có dấu hiệu bị đột quỵ.
  • T (time): Khi một người có những triệu chứng trên thì rất có thể họ đã bị đột quỵ, vì vậy hãy gọi ngay cấp cứu (115) hoặc đưa bệnh nhân đến ngay cơ sở y tế gần nhất có khả năng điều trị bằng phương tiện phù hợp. Bệnh nhân được đưa đến bệnh viện càng sớm thì tổn thương càng ít, khả năng phục hồi càng cao, ngược lại đưa đến bệnh viện càng trễ thì càng có nhiều biến chứng nguy hiểm.

    XỬ TRÍ KHI GẶP ĐỘT QUỴ

  • Việc đầu tiên cần làm là GỌI CẤP CỨU (115), nếu không gọi được thì hãy chỉ định một người cụ thể một người gần đấy nhờ họ làm việc đó.
  • Đỡ người bệnh để họ không bị ngã, chấn thương.
  • Đặt người bệnh nằm chỗ thoáng, nghiêng một bên, đầu hơi cao, móc hết đờm dãi cho bệnh nhân dễ thở.
  • Nếu người bệnh khó thở, nới lỏng tất cả những đồ đạc bó chặt (khăn choàng, cà vạt,…). Khi bệnh nhân ngừng thở, hãy thực hiện Hồi sức tim phổi (CPR) NẾU ĐÃ ĐƯỢC HUẤN LUYỆN.
  • Báo với nhân viên y tế những dấu hiệu của người bệnh và thời điểm xuất hiện, đặc biệt nếu người bệnh bị ngã hoặc bị đập đầu.

    LƯU Ý

  • KHÔNG TỰ Ý ĐIỀU TRỊ CHO BỆNH NHÂN (kể cả bấm huyệt, châm cứu, đánh gió, chích nặn máu, hay dùng bất kỳ loại thuốc nào) vì có thể làm nặng hơn tình trạng bệnh.
  • KHÔNG CHO NGƯỜI BỆNH ĂN UỐNG để đề phòng bệnh nhân nôn sẽ khiến chất nôn vào đường thở, rất nguy hiểm.
Bs. Nguyễn Hoàng Phúc Nguyên - PTTGDSK

Nguồn tin : Trung tâm Y tế quận Tân Bình

Thứ Bảy, 9 tháng 9, 2023

TIN BUỒN: BS. Hà Công Quỳnh

 BS. Hà Công Quỳnh, nguyên là giáo viên trường Trung học Y tế Sông Bé (Trường Cao đẳng Y Tế Bình Dương hiện nay)

http://cdytbinhduong.edu.vn/


 
 Những hình ảnh của BS. Hà Công Quỳnh với"học trò"

Hop Mat 30 nam khoa YA3, A4 (1983 - 2013)


 






 










Thứ Tư, 6 tháng 9, 2023

GS.BS Văn Tần – cả một đời tận tâm

 Chắc hẳn các thế hệ sinh viên Y khoa học tại TTĐT và Bồi dưỡng cán bộ y tế (nay là trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch) cũng không bao giờ quên hình ảnh một người thầy mặc bộ áo blouse đặc biệt của thế hệ cũ, vóc dáng cao, tóc bạc trắng, gần 80 tuổi nhưng vẫn lên lớp giảng dạy mỗi thứ 3 hàng tuần cho Sinh viên học về Ngoại khoa tại BV Bình Dân. Dù thầy nói khó nghe vì mang đặc giọng Quảng Trị, chúng tôi vẫn cảm thấy tôn trọng thầy và cố gắng lắng nghe. Nay tìm đọc lại các bài viết về thầy trên báo thấy không nhiều, nhưng cũng xin được sưu tầm lại như một lời tri ân và biết ơn đến thầy, cũng như noi theo gương sáng của thầy, chúng tôi sẽ cố gắng tiếp bước.

Sinh ra và lớn lên ở vùng “đất lửa” Quảng Trị, hàng ngày phải chứng kiến cảnh bom rơi đạn lạc. Mẹ, chị và cháu ruột bị trúng bom chết dưới hầm. Chú ruột bị giặc chôn sống, cậu ruột bị bắn chết ngay tại chỗ vì “tội theo Việt Cộng”, thế nhưng năm 1965, sau khi tốt nghiệp đại học Y khoa Sài Gòn, bác sĩ Văn Tần vẫn phải đeo lon sĩ quan biệt phái của “Quân lực Việt Nam cộng hoà”.

GS.BS Văn Tần, nguyên Phó Giám đốc BV Bình Dân.

Khi Sài Gòn hoàn toàn giải phóng, mặc dù cũng chỉ giảng dạy ở Trường Đại học y và bác sĩ điều trị ở bệnh viện Bình Dân, ông vẫn được thăng đến cấp… đại úy. Và cũng như bác sĩ đồng nghiệp Nguyễn Chấn Hùng, sau 4 tháng học tập cải tạo, ông được mời trở lại làm việc với chế độ mới. Từ năm 1981, ông là Phó Giám đốc Bệnh viện Bình Dân, đồng thời là Chủ nhiệm bộ môn Ngoại tổng quát Trung tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ y tế TPHCM từ năm 1990 đến nay.

Khi chúng tôi đến Bệnh viện Bình Dân, hỏi chuyện về ông, các đồng nghiệp, học trò và cả bệnh nhân đều khâm phục tài năng của ông, kính trọng nhân cách của ông. Sáng, bao giờ ông cũng đến bệnh viện từ rất sớm. Có khi 5-6 giờ đã thấy ông có mặt. Chiều, ông về rất muộn. Đã gần 70 tuổi, đã từng góp phần chủ yếu vào điều trị cho gần 30.000 ca mổ trong đời thế mà bây giờ mỗi tháng ông vẫn đảm trách từ 30 đến 40 ca phẫu thuật.

Trong suốt ngần ấy năm công tác ở ngành y, người ta chưa hề thấy ông nghỉ bệnh, nghỉ phép. Tài giỏi như ông, chỉ cần nghe tiếng, bệnh nhân đã kéo đến, thế mà ông kiên quyết không mở phòng mạch tư, không nhận mổ dịch vụ… Trong những năm khó khăn, có không ít bác sĩ đã bỏ nước ra đi, người ta rủ ông, ông chối phắt. Và ngay cả sau này, khi có dịp ra nước ngoài dự hội nghị khoa học, cũng lại được mời chào, lôi kéo, ông vẫn kiên quyết… Thiên hạ tranh giành nhau chỉ vì cái ghế, thế mà mỗi lần đề bạt ông là một lần ông từ chối.

Ông bảo “Cái chức Phó giám đốc bệnh viện, khi anh Mười Nhâm mất, người ta bảo tôi nhận tạm. Cứ thế mà để đến bây giờ…”. Gần 30.000 ca mổ trong đời, có rất nhiều thành công thì ông không nhắc đến. Nhưng khi gặp những ca thất bại thì ông nhớ khắc khoải.

Ông bảo “mỗi khi gặp thất bại, tôi đau hơn cả người bệnh”. Có lần gặp thất bại, đau khổ quá, ông phải lên chùa định xin… giải nghệ. Thế nhưng, trở lại bệnh viện, đứng trước nỗi đau của bệnh nhân, ông không thể làm ngơ và lại lao vào làm việc quên cả nghỉ ngơi…

Trước ngày ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động, tôi gặp ông, hỏi về những “lời đồn” như trên, ông xác nhận và nói nửa như đính chính nửa như tâm sự: Cả đời, tôi chỉ muốn dành cho việc điều trị bệnh cứu người, nghiên cứu khoa học và truyền đạt những kinh nghiệm mình có được cho thế hệ trẻ… Thế thôi!

40 năm công tác trong ngành y, đặc biệt là 30 năm phục vụ trong ngành y của chế độ mới, ông chỉ “chăm chú vào công việc ở bệnh viện và trường Đại học y dược”. Thế thôi! Cũng đã xứng đáng cho một cuộc đời, một sự nghiệp…

Từ hàng chục năm nay, Giáo sư Văn Tần vẫn đều đặn hàng ngày đến Bệnh viện Bình Dân từ 5 giờ sáng để thăm khám sức khỏe bệnh nhân, nhất là những bệnh nhân ở buồng chăm sóc đặc biệt vừa trải qua cuộc đại phẫu…

Giáo sư Văn Tần gắn bó với Bệnh viện Bình Dân từ năm 1972. Đến nay, dù đã hơn 80 tuổi nhưng ông vẫn giữ thói quen đến thăm bệnh trước khi bước vào những cuộc họp giao ban y khoa. Ông cho biết, đến nay không thể nhớ mình đã thực hiện bao nhiêu ca mổ cả thông thường lẫn đặc biệt, nhưng dù ở cương vị nào ông vẫn giữ thói quen thăm khám và dành đến sự ân cần thăm hỏi, sẻ chia cho bệnh nhân và thân nhân người bệnh. Ông chưa cho phép bản thân nghỉ ngơi hoàn toàn vì người bệnh đang cần ông, đặc biệt là những ca mổ khó. Mặc dù đã ở tuổi nghỉ hưu, ông vẫn được ban lãnh đạo bệnh viện mời ở lại làm việc. 12 năm với vai trò cố vấn chuyên môn, ông vẫn luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật và đề xuất, nghiên cứu và ứng dụng những kỹ thuật mới phù hợp với người bệnh, viết sách và làm công tác giảng dạy để truyền đạt kinh nghiệm cho những thế hệ tiếp theo.

Vị bác sĩ nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện Bình Dân luôn tâm niệm, còn sống ngày nào là cố gắng làm việc ngày đó. Ông là tấm gương y đức cho nhiều thế hệ y bác sĩ noi theo.

(SGGP Online)

 GS Văn Tần sinh năm 1938. Quê quán người tộc Văn Nhì Hải Lăng-Quảng Trị.

– Tốt nghiệp Cử nhân Sinh lý năm 1963. Năm 1965 Ông tốt nghiệp Bác sĩ Nội Trú. 

- Tiến sĩ Y Khoa năm 1967. Năm 1975 Ông tốt nghiệp sau đại học về Ngoại chung. Lồng ngực-Tim mạch tại các trường: Đại học Y Sài Gòn-Đại học Y Pittsburg. USA (1972-1975).

- Học hàm Phó Giáo sư năm 1992. Năm 2007 Ông được phong Học hàm Giáo sư.

- Phó Chủ tịch hội Ngoại tim Mạch-Lồng Ngực VN. Chủ tịch phân hội Nội soi Lồng Ngực VN.- Thành viên BCH các hội: Ngoại Khoa, Ung Thư, Khoa học Tiêu hóa, Gan, Mật Quốc Gia VN.

- UV-BCH Hội Ngoại Đại Trực Tràng-Đông Nam Á  (ASCS). Hội viên các Hội quốc tế: Nội Soi Châu Á-Thái Bình Dương (ELSA). Phẫu thuật mạch máu Pháp (SCV). Ngoại khoa Thế giới (ISS). Chấn thương và săn sóc đặc biệt Thế giới (IATSIC)….

- Ông được nhà nước CHXHCNVN trao tặng nhiều huân chương, Huy chương và nhiều bằng khen về lao động sáng tạo cao quý vào các năm: 1988, 1989, 1994, 1995, 1996, 2004, 2005….

- Ông có những công trình nghiên cứu cấp Cơ sở, Cấp Thành phố, Cấp Hợp tác quốc tế. Hơn 350 bài báo cáo trong các báo cáo trong nước và quốc tế.

Với thành quả lao động sáng tạo không mệt mỏi. Ông được tặng các danh hiệu :

-Thấy thuốc Ưu Tú năm 1997. Thầy thuốc Nhân Dân năm 2005. Anh hùng Lao động năm 2006…

Trưởng Ban Tổ chức Thành uỷ TP Nguyễn Hồ Hải thăm, chúc mừng Giáo sư, Bác sĩ Văn Tần.
Trưởng Ban Tổ chức Thành uỷ TP Nguyễn Hồ Hải thăm, chúc mừng Giáo sư, Bác sĩ Văn Tần (27/2/2020)

Khi nhắc đến quê quán, ông đem đến cho người đối diện cái cảm giác khắc khoải, đau đáu của một người con xa xứ. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân ở huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Tuổi thơ đi qua cũng lam lũ như bao trẻ em nghèo của dải đất nắng gió miền Trung. Ông bảo, ông đi học và cố gắng học vì quá sợ cái đói hằn sâu trong ký ức. Khi tôi hỏi cơ duyên nào ông lại đến với ngành y, nỗi đau trong ông lại ùa về. Những mất mát đã mấy chục năm trôi qua vẫn khiến giọng ông trầm hẳn xuống: “Thời đó, thuốc men hiếm hoi, bệnh là chết. Em trai tui chỉ mổ một cái nhọt bình thường ở cổ mà qua đời khi mới 5 tuổi. Ông nội mất chỉ vì sốt rét. Bao nhiêu người trong làng chết oan uổng vì những thứ bệnh không đâu. Điều đó ám ảnh và thúc giục tui theo ngành y”.

Con đường tri thức đã buộc ông lưu lạc từ quê nhà vào Huế, rồi đến đất Sài Gòn. Ở đâu ông cũng tự bươn chải để trang trải cuộc sống và theo nghiệp đèn sách.

Vào học Y khoa Sài Gòn đến năm 2, do lượng bài vở quá nhiều ông không thể tiếp tục đi làm thêm. Hoàn cảnh lịch sử và cái nghèo đã buộc ông phải chọn lựa: Nhận lương quân y của chế độ cũ để đi học với điều kiện ăn lương học 1 năm ra trường phải phục vụ lại 2 năm cho quân đội. Ngày đất nước thống nhất, đa số bạn bè ông đều ra đi nhưng ông kiên quyết ở lại với quê hương, dẫu biết muôn vàn khó khăn đang đợi mình phía trước. Nhắc đến chuyện này, ông cho rằng đó là quyết định của lương tâm: “Nghề của tui, dù ở cương vị nào, mục đích cuối cùng là điều trị cho người bệnh. Người nghèo, rất nhiều người nghèo, họ cần tui!”.

Nhiều người ở lại với quê hương đã vươn lên nắm vững không chỉ về chuyên môn và khoa học mà còn ở những vị trí lãnh đạo chủ chốt của ngành. Ông cũng nằm trong số đó và đã nhiều lần được Nhà nước tôn vinh bằng những danh hiệu cao quý. Và lần này là danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. “Đó là liều thuốc tinh thần quý báu” – ông nói. Gắn bó với nghề trên 30 năm, cho đến bây giờ, khi nhiều người bị nền kinh tế thị trường cuốn đi, ông vẫn thuỷ chung với tôn chỉ có vẻ lập dị: “Không mổ dịch vụ, không mở phòng mạch tư. Bệnh nhân dù giàu hay nghèo, chỉ ưu tiên điều trị cho người bệnh nặng trước!”.

9 giờ, ca đại phẫu ung thư đại tràng do ông mổ chính bắt đầu.

13 giờ, ca mổ hoàn thành. Và chỉ vừa thay xong bộ đồ mổ, ông đã tranh thủ rảo bước xuống thăm ca bệnh chuẩn bị mổ vào tuần sau. Tôi bước theo sau, nhìn mái tóc bạc trắng và nhớ về tuổi tác, tôi chợt nghĩ ông đang đua tốc độ với thời gian để đến với người bệnh.

Sự mộc mạc của ông đã xua tan khoảng cách nơi vị khách bất đắc dĩ như tôi. Tôi theo ông lên phòng làm việc. Thật bất ngờ khi cánh cửa mở ra, toàn hoa là hoa! Tôi lướt nhanh trên những dòng chữ đính kèm. Đó là hoa của các học trò cũ và đồng nghiệp gần xa gửi đến chung vui cùng ông, khi nghe tin ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.

“ Cô xa quê lâu chưa? Có biết món nào của Quảng Trị không? Ăn trưa với tui hí!”. Dứt câu, ông kéo từ ngăn tủ lấy ra gô cơm mang theo từ sáng.

Tôi nhận lời ăn trưa cùng ông. Có lẽ vì cái gô cơm tri kỷ hay vì những món ăn dân dã không lẫn vào đâu được của dải đất miền Trung mà ông đã mang theo suốt đời người.

Trong bữa cơm, ông kể cho tôi nghe về 3 đứa con đã nối nghiệp cha một cách tự hào. Và cậu con trai rẽ ngang không giống ai nhưng lại khá thành công là Văn Hùng Cường (từng đoạt giải thưởng âm nhạc quốc tế năm 2000 – Huy chương vàng Piano) đang tu nghiệp ở nước ngoài. Ông lại nói về ngôi nhà và mảnh vườn trĩu quả của mình ở Hiệp Bình Chánh (Thủ Đức). Ông bảo: “Gốc gác nông dân quen rồi, tui thích trồng và chăm sóc cây lắm. Đi làm về là tui ra vườn!”.

(NLD online)

Những ca mổ nổi tiếng của GS.BS Văn Tần:

  • Nguyễn Đức là người em trong cặp song sinh dính nhau Việt – Đức chào đời tại Kon Tum. Họ dính nhau phần bụng chậu, bộ phận sinh dục, hậu môn, có hai chân và một chân cụt. Ca phẫu thuật huyền thoại tách rời hai anh em diễn ra ngày 4/10/1988, trở thành dấu mốc son trong lịch sử y học Việt và được ghi danh vào sách kỷ lục Guinness thế giới. Ca mổ tách quy tụ đội ngũ giáo sư, bác sĩ giỏi nhất Việt Nam lúc bấy giờ đã thành công tốt đẹp sau 15 giờ diễn ra căng thẳng với 3 phẫu thuật viên chính là Giáo sư, bác sĩ Trần Đông A, Trần Thành Trai và Văn Tần.