Từ một bác sĩ trẻ được cử sang Viễn Đông, Albert Calmette để lại dấu ấn lớn ở Sài Gòn khi mở Viện Pasteur đầu tiên ngoài nước Pháp, rồi phát minh vaccine BCG giúp thay đổi cuộc chiến chống lao toàn cầu.
Tại TP HCM, dấu ấn Albert Calmette vẫn hiện hữu sau 135 năm lịch sử. Viện Pasteur Sài Gòn do ông đặt nền móng nay trở thành Viện Pasteur TP HCM - trung tâm nghiên cứu, giám sát dịch bệnh và tiêm chủng hàng đầu phía Nam. Tên Calmette được đặt cho một con đường và cây cầu bắc qua kênh Bến Nghé, như một cách ghi nhớ vị bác sĩ Pháp từng gắn bó và để lại dấu ấn sâu đậm trong y tế Việt Nam. Và với hầu hết trẻ em Việt Nam, di sản Calmette còn in dấu ngay trên cơ thể - vết sẹo nhỏ trên vai sau mũi tiêm vaccine BCG đầu đời để phòng ngừa bệnh lao.
Albert Calmette sinh ngày 12/7/1863 tại Nice (Pháp), học Trường Y Hải quân ở Brest từ năm 1881. Khi 20 tuổi, ông được cử sang HongKong phục vụ trong y tế hải quân, bắt đầu tiếp xúc với các bệnh nhiệt đới. Ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ y khoa về sốt rét năm 23 tuổi. Sau thời gian công tác tại Gabon và Congo, ông trở về Paris thực tập về vi khuẩn học. Nhờ từng trải trong hải quân và am hiểu vi khuẩn học, Calmette được Louis Pasteur cử đến Sài Gòn năm 1890 để mở Viện Pasteur đầu tiên bên ngoài nước Pháp, theo tư liệu từ Viện Pasteur Paris.
Giữa khí hậu nhiệt đới, nơi dịch bệnh truyền nhiễm dễ bùng phát và y tế còn nhiều hạn chế, Albert Calmette khởi đầu sự nghiệp tại Sài Gòn với vô vàn thách thức. Từ một phòng thí nghiệm đơn sơ trong Bệnh viện Quân sự (nay là Bệnh viện Nhi đồng 2), ông cho chuyển dụng cụ từ Pháp sang, đào tạo những kỹ thuật viên đầu tiên, rồi nhanh chóng dựng nên cơ sở mới ở vị trí khác - chính là Viện Pasteur TP HCM ngày nay ở đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa.
Không chỉ mang kiến thức vi trùng học đến một vùng đất xa xôi, Calmette còn trực tiếp ứng phó với dịch bệnh đang hoành hành. Khi đậu mùa, bệnh dại và rắn độc cướp đi hàng nghìn sinh mạng mỗi năm, ông vừa xây dựng cơ sở vừa cải tiến kỹ thuật để làm một số xét nghiệm chẩn đoán bệnh và sản xuất được vaccine đậu mùa, vaccine dại thích nghi khí hậu nhiệt đới. Ông còn bào chế huyết thanh kháng nọc rắn - mang lại lối thoát sinh tử cho người dân xứ Nam Kỳ khi ấy.
Trong chưa đầy ba năm, từ bước khởi đầu nhỏ bé, Viện Pasteur Sài Gòn trở thành trung tâm y học lớn của Đông Dương, thu hút cả bệnh nhân từ Mã Lai, HongKong, Thượng Hải. Năm 1893, khi lâm bệnh nặng buộc phải trở về Pháp, Calmette để lại một nền tảng vững chắc, mở đường cho sự nghiệp Pasteur tiếp tục phát triển lâu dài tại Sài Gòn.

Tượng Albert Calmette tại khuôn viên Viện Pasteur TP HCM. Ảnh: Quỳnh Trần
Trở về Pháp, ông tiếp tục nghiên cứu phát triển kháng độc tố đầu tiên, chống các vết cắn của rắn độc bằng cách sử dụng huyết thanh miễn dịch lấy từ các con ngựa đã được tiêm vaccine (huyết thanh Calmette). Ông cũng tham gia vào việc phát triển huyết thanh miễn dịch đầu tiên chống dịch hạch, dựa trên phát hiện của Alexandre Yersin, sau đó ông đến Bồ Đào Nha nghiên cứu chống bệnh dịch.
Năm 1899, Calmette được hai nhà khoa học Louis Pasteur và Émile Roux giao trọng trách sáng lập Viện Pasteur Lille, nơi ông gắn bó suốt 25 năm. Tại đây, ông tiên phong khởi xướng khái niệm "y học xã hội", coi việc phòng bệnh và cải thiện điều kiện sống quan trọng không kém nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Ông kêu gọi nâng cấp nhà ở công nhân, cải tạo khu ổ chuột, xử lý nước thải, mở phòng phát thuốc cho người nghèo, thậm chí tổ chức cả bệnh viện dã chiến trong chiến tranh. Với Calmette, y học phải bước ra đời sống, hiện diện trong từng ngôi nhà, con phố, xưởng thợ.
Vaccine BCG - dấu mốc trong cuộc chiến bệnh lao
Từ năm 1908, Calmette cùng cộng sự Camille Guérin bắt tay nghiên cứu một chủng vi khuẩn bò đã làm suy yếu, nhằm tìm ra cách phòng chống căn bệnh lao - "kẻ giết người thầm lặng" cướp đi sinh mạng hàng triệu người mỗi năm. Sau hơn 200 lần cấy, đến năm 1921 họ thu được vaccine BCG (Bacillus Calmette-Guérin) đầu tiên, bắt đầu thử nghiệm trên trẻ sơ sinh Pháp và lan rộng toàn cầu.
Chỉ một liều nhỏ, để lại vết sẹo đặc trưng trên cánh tay, nhưng vaccine BCG trở thành "lá chắn" chống lại căn bệnh chết người. Vaccine này đã được WHO, UNICEF đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng, được xem là một trong những phát minh y học có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử nhân loại.
Trong một bức thư, Calmette viết: "Cuộc chiến khoa học và xã hội chống lại bệnh lao đã trở thành một nỗi ám ảnh thực sự đối với tôi. Tôi có điều kiện hơn bất kỳ ai để thấu hiểu mức độ khốn cùng và sự tàn phá mà căn bệnh này gây ra cho tầng lớp lao động. Mỗi ngày tôi đều chứng kiến sự thiếu hiệu quả trong việc phối hợp các nỗ lực công và tư nhằm chống lại bệnh lao".
Nhà khoa học Émile Roux từng nhận định nhờ khối lượng công việc phi thường đã thực hiện trong 2 năm rưỡi ở Đông Dương, Albert Calmette đã chứng minh những giá trị to lớn mà vi sinh học có thể mang lại. Cơ sở ông xây dựng ở Sài Gòn trở thành hình mẫu cho các viện Pasteur sau này trên khắp các thuộc địa, mở đầu cho mạng lưới 33 viện trải rộng 5 châu lục ngày nay.

Viện Pasteur TP HCM ngày nay. Ảnh: Quỳnh Trần
Lê Phương
Kiến trúc Pháp xưa và ngôi mộ cổ ở Viện Pasteur TP HCM
Viện Pasteur TP HCM vẫn giữ kiến trúc Pháp sau 130 năm với cầu thang sắt xoắn ốc, hệ thống cửa vòm, bán hầm và cả mộ cổ trong khuôn viên.
Thành lập năm 1891 với tên Viện Pasteur Sài Gòn, là cơ sở nghiên cứu - xét nghiệm dịch tễ lâu đời nhất Đông Dương. Khi mới xây dựng, nơi này cũng là chi nhánh đầu tiên ngoài nước Pháp của Viện Pasteur Paris.
Người thành lập, tổ chức và điều hành viện đầu tiên là bác sĩ Albert Calmette, một trong những học trò của bác sĩ Louis Pasteur. Ban đầu, viện đặt cơ sở tại Bệnh viện Grall (nay là Bệnh viện Nhi đồng 2), về sau được xây dựng cơ sở mới tại vị trí hiện nay vào năm 1905.
Viện nằm trên vùng đất cao và đông dân cư ở khu vực đường Pellerin (nay là Pasteur). Công trình diện tích khoảng 24.000 m2 giới hạn bởi bốn con đường, ngày nay là các đường Pasteur - Trần Quốc Toản - Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Võ Thị Sáu. Năm 1976 Viện đổi tên thành Viện Dịch tễ học và năm 1979 trở thành Viện Pasteur TP HCM.
Cổng chính vẫn giữ căn bản nét kiến trúc so với ảnh chụp năm 1940. Cánh cửa với các hoa văn sắt cùng dòng chữ Pasteur và logo của viện được bảo tồn nguyên vẹn.
Viện được thiết kế theo các mẫu nhà bệnh viện Pháp thời bấy giờ, với những dãy nhà hình chữ U, tường gạch, mái dốc và ngói đỏ. Khuôn viên ở giữa diện tích 5.000 m2, trồng nhiều cây xanh nên không gian thoáng đãng.
Mỗi dãy nhà diện tích khoảng 1.800 m2 được xây một hầm, một trệt, một lầu. Nhà xây bằng gạch, xi măng, tường dày nhằm đảm bảo vững chắc đồng thời có tác dụng chống nóng.
Cửa vòm mặt trước ngôi nhà theo kiểu Roman với họa tiết trang trí đơn giản và ít phù điêu. Phía trên các cửa trang trí bằng gạch Marseille, dáng hình vòm màu đỏ tươi. Cách trang trí này giúp ngôi nhà không bị đơn điệu bởi một màu vàng của sơn tường, tạo điểm nhấn cho cửa sổ mái vòm.
Hành lang rộng, lát gạch bông từ thời Pháp với nhiều cửa sổ lá sách bằng gỗ. Hệ thống cửa sổ ngoài che mưa nắng mà vẫn đảm bảo thông gió, vừa trang trí cho ngôi nhà hợp với cảnh quan và khí hậu nhiệt đới nóng ẩm.
Cầu thang được thiết kế theo phong cách nghệ thuật Baroque, đặc trưng bởi các đường cong và xoắn nhằm nâng cao cảm giác linh động và mề mại. Trải qua thời gian dài tồn tại, cầu thang vẫn giữ vẻ đẹp nguyên sơ và chắc chắn.
Khuôn viên bên ngoài nhiều cây xanh tạo thành những tiểu cảnh, thảm cỏ xanh mát. Khoảnh sân đối diện sảnh chính đặt tượng Albert Calmette (1863-1933) - người đã lên ý tưởng xây dựng Viện Pasteur Sài Gòn.
Ở góc phía sau là tượng nhà khoa học Louis Pasteur (1822-1895), nổi tiếng với phát minh phương pháp tiệt trùng (pasteurization), chứng minh vi sinh vật gây bệnh và phát triển vaccine phòng bệnh dại, than, tả. Ông là người đặt nền móng cho ngành vi sinh và miễn dịch học hiện đại.
Một phòng thí nghiệm ở Viện Pasteur trong ảnh chụp năm 1926. Ảnh sau là phòng xét nghiệm sinh hóa miễn dịch, được trang bị nhiều máy móc tự động, với công suất có thể lên đến hàng nghìn mẫu mỗi ngày.
Viện có chức năng nghiên cứu khoa học, chỉ đạo chuyên môn tuyến trước, phòng chống dịch, đào tạo cán bộ chuyên ngành về vi sinh y học, miễn dịch, dịch tễ học, đề xuất với Bộ Y tế các biện pháp phòng chống dịch bệnh phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội ở khu vực miền Nam.