Thứ Ba, 4 tháng 10, 2022

Nói về tiếng Việt: Bác Sĩ, Tiến Sĩ, Thạc Sĩ…

 Nguyễn Văn Đạt

1. Nói về tiếng Doctor ở Mỹ:

          1. 1. Trước hết, mặc dù chữ Doctor có nguồn gốc từ chữ Teacher, không ai gọi Teacher là Doctor, ngoại trừ trường hợp người Teacher đó có bằng cấp có chữ Doctor. Thí dụ như Teacher Jill Biden được gọi là Doctor vì bà ta có bằng cấp Doctor of Education.

          1. 2. Tất cả những ai có bằng cấp có chữ “Doctor”, trong bất cứ ngành nào cũng đều có thể được gọi là Doctor. Ngoại trừ một vài trường hợp chẳng hạn như bằng cấp Juris Doctor. Thí dụ như Joe Biden có bằng cấp Juris Doctor nhưng không ai gọi Joe Biden là Doctor (trong khi Jill Biden có bằng cấp Doctor of Education thì được gọi là Doctor). Barack Obama và Michele Obama đều có bằng cấp Juris Doctor nhưng không ai gọi họ là Doctor cả.

          1. 3. Thông thường, tiếng “Doctor” được hiểu ngầm là nói tắt của tiếng Medical Doctor. Thí dụ như trên một chuyến bay (đang ở trên không) có người bị ngất xỉu, tiếp viên hàng không hỏi trên máy bay có ai là Doctor hay không (để nhờ giúp bệnh nhân kia) thì những người có bằng cấp Doctor như Jill Biden không lên tiếng, vì họ biết rằng tiếng Doctor ở đây là nói tắt của tiếng Medical Doctor mà thôi, không ám chỉ những Doctor khác.

          1. 4. Nếu nói về các chương trình học ở các đại học Mỹ để được cấp bằng có chữ “Doctor” thì rất dài dòng; càng đi vào chi tiết thì càng dễ bị sai sót vì mỗi ngành mỗi khác, và mỗi trường mỗi khác cho từng ngành… Một chi tiết đúng cho ngành nầy có thể không đúng cho ngành khác. Ngay cả trong cùng một ngành, chi tiết đúng cho trường nầy có thể không đúng cho trường khác. Ngay cả trong cùng một ngành của cùng một trường cũng có các trường hợp khác nhau. Thí dụ như School of Public Health ở Havard University có chương trình Doctor of Public Health (Dr. PH) mà cũng có chương trình Ph.D (in Public Health).

2. Nói về tiếng Việt (Bác Sĩ, Tiến Sĩ, Thạc Sĩ):

          2. 1. Nói chung (vì có những trường hợp ngoại lệ) thì tiếng Bác Sĩ thời VNCH được dùng để nói về Bác Sĩ Y Khoa (giống như tiếng Doctor của Mỹ thông thường được dùng để chỉ Medical Doctor, xin xem mục số 1. 3 ở trên). Trong khi đó chữ Tiền Sĩ được dùng để gọi những người có bằng cấp có chữ “Doctor” nhưng không phải trong ngành Y học (thí dụ như bằng Ph.D, Dr.PH, Ed.D…).

Đó là lý do tại sao người Việt chúng ta gọi ông Anthony Fauci là Bác Sĩ Fauci (vì ông nầy có bằng cấp Medical Doctor) và gọi ông Henry Kissinger là Tiến Sĩ Kissinger (vì ông nầy có bằng Ph.D). Trong khi ở Mỹ cả hai đều được gọi là Doctor (Doctor Fauci và Doctor Kissinger).

          2. 2. Đúng như các ông/bà Nguyễn Dương (Jean Aimarre) và Dinh Nguyen đã vạch ra, thời VNCH chữ Thạc Sĩ được dùng để chỉ những người có bằng cấp cao nhất trong ngành của họ, thường thường tốt nghiệp ở Pháp (Thạc có nghĩa là rộng/cao). Thời VNCH có rất ít người được gọi là Thạc Sĩ, và học vị Thạc Sĩ thời đó được coi là có uy tín không thua kém Tiến Sĩ nếu không muốn nói là hơn cả Tiến Sĩ.  Thí dụ như Thạc Sĩ Vũ Quốc Thúc, sinh năm 1920, đậu bằng thạc sĩ (kinh tế học) ở Pháp năm 1950, cùng lúc và cùng trường với cựu Thủ Tướng Pháp Raymond Barre. Trước năm 1975 Thạc Sĩ Vũ Quốc Thúc từng giữ các chức vụ như Bộ Trưởng Giáo Dục, Giám Đốc Ngân Hàng QGVN, Khoa Trưởng trường Đại Học Luật Khoa, Quốc Vụ Khanh đặc trách tái thiết, kinh tế….  Sau năm 1975 ông sang định cư ở Pháp và làm giáo sư kinh tế học ở Đại Học Paris cho đến lúc nghỉ hưu năm 1988. Thí dụ dài dòng nầy là để cho thấy rằng học vị Thạc Sĩ thời VNCH không thấp hơn bất cứ học vị nào khác.

          2. 3. Sau năm 1975 tiếng Việt có nhiều thay đổi. Một số thay đổi là do tiếng Việt là một “Sinh Ngữ” nên sự thay đổi theo thời gian là một chuyện đương nhiên. Tuy nhiên có nhiều những thay đổi là do sự thiếu hiểu biết nên dùng chữ sai, hay nói đúng hơn là không biết dùng chữ nào cho đúng để diễn tả ý mình nên dùng đại chữ nào mình đã học lóm được nên dùng không đúng chỗ. Đây là một chuyện dài vô tận nên chúng ta không bàn ở đây.  Xin trở lại chữ Thạc Sĩ. Ngày nay người VN dùng chữ Thạc Sĩ để chỉ những người có bằng cấp tương đương với bằng Master của Mỹ, tức là có học một hay hai năm sau chương trình đại học. Trong thời VNCH chúng ta gọi học vị này là Cao Học. Thời VHCH, nhiều trường đại học ở VN có các chương trình Cao Học, tương đương với chương trình Master ở Mỹ. Và cũng có vài trường có cả chương trình Tiến Sĩ, như trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn có cấp bằng Tiến Sĩ (hình như gọi là Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp, tương đương với một bằng Tiến Sĩ ở Pháp).

          2. 4. Sau năm 1975, ở VN không những học vị Thạc Sĩ đã bị “xuống cấp” mà còn có các học vị khác cũng bị cùng chung số phận.  Thí dụ như thời VNCH các trường cao đẳng (đào tạo kỹ sư) được xem là rất có uy tín so với các trường đại học văn khoa, luật khoa, khoa học (đào tạo cử nhân). Vì muốn vào các trường cao đẳng thì phải qua các cuộc thi tuyển khó khăn, có khi với hàng ngàn thí sinh mà chỉ tuyển chọn có năm ba chục sinh viên (thí dụ như các trường cao đẳng Công Chánh, Điện Học, Hoá Học… ở Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ), trong khi với các trường đại học văn khoa, luật khoa, khoa học thì chỉ cần ghi danh sau khi đã đậu Tú Tài là được học. Nếu làm việc cho chính phủ thì chỉ số lương cho Kỹ Sư cũng cao hơn so với Cử Nhân (chỉ số 470 thay vì 430).

Ngày nay ở VN chữ Cao Đẳng được dùng để chỉ những trường đào tạo các sinh viên chi học 2 năm sau bậc trung học (tương đương với các trường Community College nhỏ ở Mỹ). Học vị cao đẳng ngày nay thấp hơn học vị cao đẳng thời VNCH rất nhiều. Có thể nói học vị cao đẳng ở VN ngày nay chị tương đương với học vị Cán Sự hay Kiểm Sự thời VNCH (lúc đó chỉ số lương là 350).

Nguyễn Văn Đạt

Ngành Y tế Bình Dương: 25 năm chuyển mình mạnh mẽ và vượt qua thách thức

TTĐT - Đối mặt với nhiều bộn bề khó khăn trong những ngày đầu mới chia tách tỉnh nhưng sau 25 năm, ngành Y tế Bình Dương đã có bước chuyển mình mạnh mẽ với đội ngũ y, bác sĩ thành thạo tay nghề, làm chủ các thiết bị công nghệ về khám, chữa bệnh, đáp ứng tốt năng lực điều trị, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Đặc biệt, trong đại dịch Covid-19, Y tế là lực lượng nơi tuyến đầu, bền ​bỉ đương đầu khó khăn, nguy hiểm với tinh thần "Sức khỏe, tính mạng của nhân dân là trên hết, trước hết".

Hiệu quả từ chủ trương xã hội hóa Y tế

Thời gian qua, Bình Dương đã nỗ lực để mọi người dân được tiếp cận với dịch vụ y tế thông qua mạng lưới y tế rộng khắp trong tỉnh. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 03 bệnh viện công lập tuyến tỉnh, 09 trung tâm y tế tuyến huyện, 19 phòng khám đa khoa khu vực, 91 trạm y tế, 02 bệnh viện theo hệ thống y tế ngành. Trong đó một số cơ sở y tế được đầu tư khá quy mô như: Bệnh viện Đa khoa 1.500 giường, Bệnh viện Nhi 300 giường...

Ngành Y tế đã tập trung củng cố mạng lưới, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ y tế dự phòng các tuyến. Tỉnh cũng rất quan tâm đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, đào tạo theo địa chỉ và thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực từ các địa phương khác đến công tác lâu dài tại Bình Dương với các chính sách hỗ trợ sinh viên y, dược đào tạo theo địa chỉ sử dụng, theo hình thức đặt hàng… Bên cạnh đó, ngành cũng đặc biệt chú trọng phát triển kỹ thuật cao. Để làm được điều này, các cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh đã đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, thu hút nguồn nhân lực có chất lượng, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ tại các cơ sở uy tín trong và ngoài nước.


Các cơ sở y tế được đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại

Bình Dương là tỉnh phát triển mạnh về công nghiệp, thu hút lực lượng lao động từ các địa phương khác đến làm ăn, sinh sống nên nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân ngày càng cao. Những năm qua, cùng với nguồn lực ngân sách Nhà nước, tỉnh chủ trương xã hội hóa y tế để thu hút thêm nhiều nguồn lực tham gia cung cấp dịch vụ y tế, đảm bảo vừa phục vụ yêu cầu tối thiểu trong việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, vừa nâng cao chất lượng dịch vụ y tế.

Chính thức đi vào hoạt động từ cuối năm 2016, Bệnh viện Quốc tế Becamex (phường Lái Thiêu, TP.Thuận An) đã trở thành địa chỉ chăm sóc sức khỏe tin cậy, quen thuộc của nhân dân trong và ngoài tỉnh, cả người Việt Nam lẫn người nước ngoài. Mỗi ngày, bệnh viện có hơn 1.000 lượt khám bệnh ngoại trú, 300 giường bệnh nội trú luôn đạt công suất trên 90%. Bệnh viện Quốc tế Becamex chấp nhận thanh toán Bảo hiểm y tế nhằm giúp mọi người dân được tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng cao, nhờ đó nhiều người dân đã tin tưởng lựa chọn khám, chữa bệnh tại Bệnh viện này.

Chị Võ Thị Nga (TP.Thuận An) chia sẻ: "Sinh con ở Bệnh viện Quốc tế Becamex, tôi được các y, bác sĩ chăm sóc tận tình, lịch sự và ân cần. Đặc biệt là được sử dụng Bảo hiểm y tế nên giá cũng phải chăng. Các công nhân bình thường như tôi vẫn có thể đến khám hoặc chữa bệnh. Hi vọng sẽ có thêm nhiều bệnh viện như thế này".


Bệnh viện Quốc tế Becamex đi vào hoạt động từ năm 2016​

Hiện nay, mạng lưới y tế ngoài công lập trên địa bàn tỉnh có 14 bệnh viện tư nhân, 50 phòng khám đa khoa tư nhân, 20 trạm y tế doanh nghiệp, 658 phòng khám chuyên khoa tư nhân và  2.585 cơ sở hành nghề y - dược. Những cơ sở y tế này tập trung ở thành phố, thị xã có nhiều khu công nghiệp, đông công nhân lao động. Một số bệnh viện, phòng khám tư nhân được Bảo hiểm xã hội đồng ý cho tham gia khám Bảo hiểm y tế nên đã đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân, góp phần giảm tải cho hệ thống y tế công lập.

Ông Huỳnh Thanh Hà - Phó Giám đốc Sở Y tế cho biết, xã hội hóa y tế là xu hướng phát triển tất yếu. Những năm qua, hệ thống y tế tư nhân đã và đang góp phần tích cực cùng với y tế Nhà nước thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe người dân trên địa bàn tỉnh. Ngành Y tế đã sử dụng nhiều kênh thông tin để kêu gọi xã hội hóa y tế trong lĩnh vực khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu và dự phòng. Sở Y tế đã đề nghị các cấp có thẩm quyền ban hành danh mục dự án, công trình y tế kêu gọi xã hội hóa. Đến nay, số giường bệnh và số lượt khám, chữa bệnh của các bệnh viện ngoài công lập chiếm khoảng 40% số giường bệnh và số lượt khám, chữa bệnh trong toàn tỉnh.

Dịch Covid-19 - cơ hội để Y tế "chuyển mình"

Đợt dịch Covid-19 lần thứ 4 bùng phát và có tốc độ lây lan nhanh đã tấn công vào các khu công nghiệp, khu nhà trọ, khu đô thị trên địa bàn tỉnh với hơn 290.000 ca mắc. Với tinh thần "Chống dịch như chống giặc", Bình Dương quán triệt yêu cầu đặt "sức khỏe, tính mạng của nhân dân lên trên hết, trước hết và quan trọng nhất". Cuộc chiến phòng, chống dịch bệnh Covid-19 đã tạo nên thách thức chưa từng có trong tiền lệ đối với hệ thống y tế của tỉnh. Trong cuộc chiến này, ngành Y tế Bình Dương đã thực hiện tốt vai trò chủ lực, cùng với hệ thống chính trị và các lực lượng chi viện đương đầu với khó khăn, nguy hiểm để khống chế và kiểm soát dịch bệnh.

Cùng một lúc, ngành Y tế phải thực hiện đồng thời nhiều nhiệm vụ: Thần tốc chống dịch, hạn chế số lượng ca mắc, điều trị giành giật sự sống cho các bệnh nhân, giảm thiểu số ca tử vong; đẩy nhanh tốc độ tiêm chủng bảo đảm hiệu quả, an toàn để sớm bao phủ vắc xin cho người dân. Bên cạnh đó, phải tiếp tục duy trì công tác chăm sóc sức khỏe, khám và điều trị bệnh cho người dân.

Đội ngũ cán bộ, y, bác sĩ, nhân viên y tế tham gia chống dịch đã nỗ lực gấp 2-3 lần so với bình thường. Họ không chỉ phải vượt qua những khó khăn vì phải cứu người trong những hoàn cảnh ngặt nghèo và thiếu thốn, mà còn phải chịu nhiều áp lực rất lớn khi số lượng bệnh nhân tăng lên quá nhanh, phải giành giật sự sống cho nhiều bệnh nhân cùng lúc. Bên cạnh đó là những gian khổ khi phải xa gia đình, làm việc dài ngày trong môi trường lây nhiễm và căng thẳng. Nhiều cán bộ y, bác sĩ, nhân viên y tế đã bị nhiễm Covid-19, có người đã vĩnh viễn ra đi khi vẫn đang tràn đầy hoài bão và khát vọng.

Những nỗ lực, đóng góp, hy sinh quên mình của các thầy thuốc, các y, bác sĩ, các nhân viên, cán bộ y tế đã góp phần mang lại kết quả bước đầu thành công, đến nay, Bình Dương đã cơ bản kiểm soát được dịch bệnh. Ông Nguyễn Hoàng Thao - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy biểu dương những cống hiến to lớn, tinh thần xả thân và nhiệt huyết của tất cả các chiến sĩ áo trắng đã tham gia chống dịch. Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân, lực lượng Y tế đã đóng góp hết sức quan trọng, là lực lượng tuyến đầu chống dịch cùng Quân đội, Công an và các lực lượng khác.


Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm hỏi, động viên các y, bác sĩ tham gia điều trị bệnh nhân Covid-19 tại Bình Dương​

Tuy nhiên, đợt dịch vừa qua cũng chính là cơ hội để nhìn nhận một số hạn chế, bất cập của hệ thống Y tế trên địa bàn tỉnh, nhất là tuyến cơ sở, y tế dự phòng và năng lực điều trị bệnh của các cơ sở y tế. Bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu - Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, Giám đốc Bệnh viện Hồi sức cấp cứu Bình Dương chia sẻ: "Sau những ngày vừa qua, theo tôi bài học lớn nhất là chúng ta phải nâng cao chất lượng y tế cơ sở. Trước đây chúng ta chú trọng phát triển các kỹ thuật cao ở bệnh viện Trung ương, tuyến tỉnh. Tuy nhiên trong đại dịch mới thấy hệ thống y tế cơ sở, đặc biệt là tuyến huyện còn một số bất cập, cụ thể là nhân lực và cơ sở vật chất, trang thiết bị, thuốc men. Trong thời gian tới, các địa phương cần nâng cao chất lượng nhân viên y tế, đảm bảo cuộc sống để họ yên tâm làm việc."

Thực hiện chủ trương "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19", vai trò của lực lượng Y tế vẫn là thường trực, thường xuyên trong trạng thái bình thường mới. Cùng với công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân, tỉnh tiếp tục triển khai các hoạt động phòng, chống dịch, nhất là ở các điểm đỏ, nguy cơ, khu vực đông công nhân lao động, tiêm vắc xin, mở rộng mạng lưới Trạm y tế lưu động kết hợp Trạm y tế truyền thống tại các địa phương. Đồng thời rà soát, sắp xếp lại các khu cách ly, cơ sở thu dung, điều trị; đầu tư cơ sở vật chất cho hệ thống y tế cơ sở; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhân lực y tế để phục vụ các cơ sở điều trị và Trạm y tế lưu động, vận động y tế tư nhân tham gia phòng, chống dịch Covid-19.


Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Lợi thăm, động viên Trạm y tế lưu động tại khu phố Thống Nhất 2, phường Dĩ An, TP.Dĩ An​

Nhiệm vụ đặt ra cho ngành Y tế trong thời gian tới là rất quan trọng. Để Y tế Bình Dương "vươn mình" không chỉ là sự cố gắng nỗ lực của ngành Y tế mà cần đến sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền; sự tham gia phối hợp của các ngành, tổ chức, đoàn thể và sự đồng tình ủng hộ của các tầng nhân dân toàn tỉnh.

Bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu: 'Tôi thăm một trạm y tế vùng cao, bao năm không đổi' , Nên bỏ từ 'xã hội hóa y tế'

 

Bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu: 'Tôi thăm một trạm y tế vùng cao, bao năm không đổi'

TTO - "Tôi lại được thăm một trạm y tế của xã vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn. Lại những bất cập bao năm nay không đổi" - bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu, đại biểu Quốc hội, giám đốc Bệnh viện ĐH Y Hà Nội kiêm giám đốc Bệnh viện Đa khoa Bình Dương, viết.


Bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu: Tôi thăm một trạm y tế vùng cao, bao năm không đổi - Ảnh 1.

Bác sĩ Lân Hiếu trong chuyến đi Hoàng Su Phì, Hà Giang - Ảnh: FBNV

Và hơn tất cả là nỗi trăn trở làm sao để trạm y tế xã chữa được bệnh cho người dân? Bác sĩ Hiếu viết:

Nhân viên y tế vừa thiếu về số lượng và ngày càng yếu về chất lượng. Thuốc điều trị bệnh mạn tính cấp định kỳ có đúng một loại, bình oxy chưa sử dụng bao giờ, các thủ thuật dù là đơn giản cũng không làm được nên đương nhiên bà con dân tộc đẻ ở nhà còn hơn đến trạm y tế xã.

Ngoài những bất cập về cơ chế chính sách, cung ứng trang thiết bị, thuốc men, theo tôi nguyên nhân chính là nhân viên y tế hoàn toàn thiếu động lực phát triển. Ra trường sách vở rơi rụng theo thời gian, nên cậu bác sĩ 37 tuổi kiến thức chắc không được bằng anh sinh viên Y6.

Mà kinh nghiệm tích lũy cũng chẳng có bao nhiêu vì bệnh gì chả chuyển. Nếu ai quyết tâm học thì đã lên huyện, tỉnh hoặc mở phòng mạch tư, để lại cho hệ thống công một trạm y tế chỉ phục vụ cho y tế dự phòng, chức năng điều trị gần như chỉ chiếm dưới 10%, mà đây mới là chức năng có thể mang lại niềm tin cho bà con.

Hồi còn nhỏ tôi rất mê bộ phim Thầy Lang, một bộ phim điện ảnh Ba Lan nói về giáo sư y khoa thất tình bỏ nhà ra đi. Ông sống ở một làng quê với kiến thức uyên bác, tuy phương tiện thô sơ nhưng vẫn cứu chữa được rất nhiều bệnh nhân.

Cuối cùng ông bị bắt vì ăn trộm bộ dụng cụ phẫu thuật. Ra tòa vì không có giấy phép hành nghề, nhưng tất cả đều sáng tỏ khi mọi người nhận ra vị giáo sư đáng kính.

Đây là một phần động lực để tôi theo đuổi ngành y và năng đến các địa phương khó khăn cả trong và ngoài nước.

Đến bao giờ trạm y tế xã mới thực sự là nơi người dân đến khám chữa bệnh. Câu trả lời là cần phải thay đổi về mặt cơ cấu tổ chức và ứng dụng công nghệ.

Về tổ chức, rất cần biến trạm y tế xã thành một phòng khám của trung tâm y tế huyện, quản lý cả con người và kinh phí. Các bác sĩ chuyên khoa sẽ có lịch định kỳ xuống trạm để khám bệnh. Bác sĩ của trạm cần theo học một chuyên ngành, mà theo tôi khuyến khích là nội tổng hợp và chứng chỉ sơ cứu ngoại khoa.

Người dân sẽ biết lịch khám chuyên khoa để đến trạm, nơi đây sẽ tấp nập vào ra nếu những bệnh lý thông thường, mạn tính (tăng huyết áp, tiểu đường, bệnh phổi tắc nghẽn) được quản lý tốt…

Về ứng dụng công nghệ, cần triển khai đường truyền hội chẩn online cho tất cả các trạm y tế - phòng khám, đặc biệt ở vùng đặc biệt khó khăn. Telehealth nghe rất nghiêm trọng nhưng chỉ một màn hình, camera và một đường truyền Internet là đủ để chữa được bao nhiêu trường hợp mà trước đây không bao giờ tìm đến trạm y tế xã, phường.

Thay đổi rất khó, nhưng đã đến lúc chắc chắn phải làm. Cứ bắt đầu bằng một huyện rồi nhân rộng ra cả tỉnh. Một ví dụ tốt sẽ là chìa khóa mở hướng đi mới, mà theo tôi chắc chắn sẽ hiệu quả hơn nhiều.

Bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu, đại biểu Quốc hội đương nhiệm và giám đốc hai bệnh viện (là người duy nhất làm giám đốc hai bệnh viện cùng lúc ở Việt Nam). Ông sinh năm 1972, là phó giáo sư, tiến sĩ chuyên khoa tim mạch.


Đại biểu Quốc hội Nguyễn Lân Hiếu: Nên bỏ từ 'xã hội hóa y tế'

TTO - Đại biểu Nguyễn Lân Hiếu cho rằng chúng ta không thể xã hội hóa y tế bằng cách tư nhân bỏ tiền ra chung với bệnh viện mua cái máy, đặt trong bệnh viện sử dụng rồi chia nhau lợi nhuận ở trong bệnh viện công.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Lân Hiếu: Nên bỏ từ xã hội hóa y tế - Ảnh 1.

Đại biểu Nguyễn Lân Hiếu - Ảnh: PHẠM THẮNG

Nêu ý kiến về dự án Luật khám chữa bệnh (sửa đổi) vào chiều 8-9, đại biểu, PGS.TS, bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu (đoàn Bình Định - giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội) xin góp ý vào một điều khoản về hợp tác công tư trong y tế - được xem là quan trọng nhất và đang vướng nhất.

Ông đề xuất nên bỏ từ "xã hội hóa y tế" bởi tìm kiếm trong lịch sử ngành y Việt Nam và thế giới không thấy có định nghĩa thế nào là xã hội hóa y tế và chưa ai đánh giá từ này mà ta cứ dùng.

"Chúng ta không thể xã hội hóa y tế bằng cách tư nhân bỏ tiền ra chung với bệnh viện mua cái máy đặt trong bệnh viện sử dụng, rồi chia nhau lợi nhuận ở trong bệnh viện công. Không xã hội hóa bằng cách như vậy và không nên dùng từ xã hội hóa y tế", ông Hiếu nêu.

Theo ông Hiếu, chỉ nên quy định ba hình thức hợp tác công - tư trong y tế. Cụ thể:

Hình thức đầu tiên là cho vay. Trong đó khuyến khích điều này để các bệnh viện có thể đứng tư cách pháp nhân vay của các tổ chức tín dụng, tổ chức quốc tế cho vay. Sau đó đầu tư bằng nguồn tiền vay đó và bệnh viện có trách nhiệm bảo vệ vốn vay như trách nhiệm của một doanh nghiệp.

Thứ hai là thuê. Hình thức thuê đã có nhưng hiện chưa rõ ràng để các bệnh viện thực hiện.

Ông nói việc thuê có thuê hai chiều. Chiều thứ nhất, bệnh viện công thuê các phương tiện, trang thiết bị của bệnh viện tư, tư nhân như các máy móc đắt tiền, không đủ điều kiện mua. Bệnh viện chịu trách nhiệm thuê để hoạt động hiệu quả.

Chiều thứ hai của thuê là tư nhân thuê của bệnh viện công. Chiều này rất khó nhưng trong dự án luật nên đặt ra hướng để các luật khác sẽ hỗ trợ giúp trở thành hiện thực.

Ông dẫn ví dụ các thương hiệu lớn trên thế giới như Accor có các thương hiệu như Sofitel, Novotel. Họ không trực tiếp xây khách sạn nhưng lấy thương hiệu để vận hành. Đấy chính là cách hiện nay đang rất hiệu quả.

"Y tế công có thương hiệu, hiểu biết, nguồn lực chất xám rất lớn nhưng không đủ khả năng để bỏ tiền ra xây dựng bệnh viện và kém nhất là vận hành bệnh viện về mặt quản trị.

Chúng ta lấy thế mạnh của y tế công là thương hiệu, niềm tin của người dân, chất xám các bác sĩ, điều dưỡng, nhà khoa học và vận hành do tư nhân thực hiện. Tất nhiên rất khó định giá thương hiệu bệnh viện, tài sản công nhưng cần hướng đi này", ông Hiếu nêu ý kiến.

Thứ ba, theo ông Hiếu đề xuất là hợp tác công tư phi lợi nhuận. Đây là hướng trên thế giới đã triển khai rất lâu, thành công. Chúng ta đã có bệnh viện tư nhân phi lợi nhuận nhưng chưa có bệnh viện nào hợp tác công tư phi lợi nhuận.

"Hợp tác công tư phi lợi nhuận là các nhà hảo tâm, quỹ xây dựng bệnh viện rồi cho bệnh viện công vận hành.

Lợi nhuận nếu có không chia cho nhau mà giữ lại đầu tư để phát triển bệnh viện rộng hơn, nâng cao đời sống cán bộ, nhân viên bệnh viện và cho các bệnh nhân nghèo, khó khăn.

Đây là mô hình nên khuyến khích và chắc chắn sẽ có rất nhiều tổ chức, cá nhân bỏ tiền ra xây dựng bệnh viện với thương hiệu nhà nước phục vụ người bệnh, để tiếng thơm cho tổ chức, cá nhân", ông Hiếu đề xuất.

Ông dẫn chứng thêm tại Hàn Quốc các bệnh viện lớn, thương hiệu lớn đều do các cá nhân, tổ chức xây dựng, vận hành phi lợi nhuận. Tại châu Âu có những tập đoàn quỹ hằng năm chuyển tiền, lấy thương hiệu của bệnh viện đó chữa bệnh cho người dân.

Dự thảo luật trình hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách đã quy định, việc thu hút đầu tư tư nhân trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, bình đẳng, bền vững, hiệu quả, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư, người sử dụng và cộng đồng.

Dự thảo cũng nêu hình thức thu hút nguồn lực xã hội trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh, bao gồm đầu tư theo hình thức đối tác công tư, các hình thức xã hội hóa khác theo quy định của Chính phủ.

Theo dự thảo thì Chính phủ quy định chi tiết điều này.

THÀNH CHUNG












Thứ Hai, 3 tháng 10, 2022

LỊCH SỬ NGÀNH Y TẾ BÌNH DƯƠNG TẬP II (1975 – 2005)

 





CHÂN DUNG LÃNH ĐẠO SỞ Y TẾ QUA CÁC THỜI KỲ

(1975-2015)


I. GIÁM ĐỐC SỞ Y TẾ :

HỌ TÊN - GIAI ĐOẠN


ẢNH CHÂN DUNG

Bs Nguyễn Thanh Phong

(Giai đoạn 1975 - 1976)

Bs Võ Phụng Biên

(Giai đoạn 1976 - 1988)

Bs Vũ Tánh

(Giai đoạn 1988 - 1994)

Bs Nguyễn Thị Hà Sinh

(Giai đoạn 1994 - 2001)

Bs Huỳnh Văn Nhị

(Giai đoạn 2001 - 2010)

Bs Lục Duy Lạc

(Từ 2010 đến nay)


II. PHÓ GIÁM ĐỐC SỞ Y TẾ :

HỌ TÊN - GIAI ĐOẠN

ẢNH CHÂN DUNG

Ông Đoàn Văn Nhậm

(Giai đoạn 1975 - 1979)

Bs Lê Minh Hoàng

(Giai đoạn 1975 - 1977)

Ds Trần Đức

(Giai đoạn 1976 - 1983)

Bs Hồ Phương

(Giai đoạn 1976 - 1986)

Bs Nguyễn Hoàng Dũng

(Giai đoạn 1980 - 1992)

Ds Trần Thanh

(Giai đoạn 1991 - 1994)

Bs Nguyễn Thị Hà Sinh

(Giai đoạn 1992 - 1994)

Bs Lê Thị Tài

(Từ 1988 - 1992 và 1994 - 1999)

Bs Trương Trung Nghĩa

(Từ 1988 - 1992 và 1994 - 2006)

Bs Nguyễn Bá Hữu

(Giai đoạn 1994 - 1996)

Bs Đinh Văn Khai

(Giai đoạn 1994 - 2007)

Bs Huỳnh Văn Nhị

(Giai đoạn 2000 - 2001)

`

Bs Đỗ Thị Thúy

(Giai đoạn 2001 - 3/2005)

Bs Khổng Trọng Khuê

(Giai đoạn 4/2001 - 2/2009)

Bs Lục Duy Lạc

(Từ 8/2005 - 8/2010)

Bs Văn Quang Tân

(Từ 9/2007 đến nay, 

4/2013 kiêm GĐ. BVĐK tỉnh)

Ds Ngô Tùng Châu

(Từ 4/2009 đến nay)

Bs Huỳnh Thanh Hà

(Từ 6/2011 đến nay)

Bs Ngô Dũng Nghĩa

(Từ 4/2013 đến nay)

Bs Cao thị Bích Thuận

(Từ 8/2013 đến nay)