Thứ Tư, 31 tháng 1, 2024

AI giải toán khó (AI cracks hard maths)

Lời giới thiệu: bài sau đây nói về Alpha Geometry là một cái máy. tại Google deep Mind do Thang Lương và nhóm của ông thực hiện. Thăng Lưông không rõ sanh tại đâu, nhưng học cấp hai tại Biên Hòa, cấp ba Saigon, dại học tại Singapore, rồi PhD tại Stanford Mỹ .

Đã từng được bình chọn 2018 là nhà nghiên cứu dưới 30 tuổi bởi Forbes
*********
Một AI tại Google Deep Mind có thể giải một số câu hỏi về hỉnh học của kỳ thi toán quốc tế (IMO), giỏi như những thí sinh hạng nhất. “những kết quả của Alpha Geometry là sốc (stunning) và kỳ diệu (breathtaking), Gregor Dolina, giám đốc IMO nói “điều ấy cho cảm tưởng (ít seems) là AI sẽ thắng huy chương vàng IMO sớm hơn nhiều là chúng ta nghĩ”.
Cuộc thi IMO, nhắm vào những học sinh cấp hai, là một trong những cuộc thi toán khó nhất thể giới. Trả lời đúng các câu hỏi đòi hỏi sự sáng tạo về toán. Điều này làm các AI phải vật lộn (struggle with), thì dụ với GPT4 có khả năng lý luận đáng kể trên các lãnh vực khác có điểm zero phần trăm trên những câu hỏi IMO, và ngay cả những AI chuyên biệt cũng vật lộn để trả lời, cũng như các người dự thi hạng trung bình.
Điều ấy một phần là do những bài toán quá khó, nhưng cũng vì có ít bài toán để huấn luyện trên AI trên dó. Cuộc thi được tổ chức hàng năm từ 1959 và mỗi lần (edition) bao gồm chỉ có 6 câu hỏi. Tuy nhiên một số những hê thống thành công nhất AI đòi hỏi hàng tỷ data điểm để học làm ra sao. Những bài toán hình học, là một hay hai của 6 câu hỏi và dính líu đến những sự kiện (facts) chứng minh về góc hay đường thẳng trong những hinh phức tạp, là đặc biệt khó để chuyển dịch vào hinh thức quen thuộc của mày điện toán (a computer friendly format).
Gold standard Tiêu chuẩn vàng
Thang Lưông tại Google deep mind và đồng nghiệp của ông vừa vượt qua (have bypassed) vấn đề này bằng cách tạo ra một dụng cụ (a tool) để tạo ra hàng trăm triệu bằng chứng hinh học mà máy đọc được. Khi họ huấn luyện và thử nó trên 30 câu hỏi hình học IMO, nó đã trả lời 25 câu đúng, so sánh với điểm cỡ chừng 25.9 câu đúng của một huy chương vàng IMO trong các cuộc thi.
“ Những hệ thống AI hiện nay của Chúng tôi còn vật lộn với cái khả năng để làm những điều như lý luân sâu, ở đó chúng tôi cần hoạch định trước cho nhiều, nhiều bước và cũng như cái tổng thể (the big picture), điều này là tại sao toán là một tiêu chuẩn quan trọng như thế và test set Cho chúng tôi trong nhiệm vụ của chúng tôi cho AI thông minh tổng quát“ Lượng nói trong một cuộc họp báo.
Alpha Geometry bao gồm hai phần, điều ấy Lương so sánh với những hệ thống suy nghĩ khác nhau trong não bộ, một cái nhanh là trực giác và một cái chậm hơn, cần nhiều phần tích hơn. Cái đầu tiên, phần trực giác là một mẫu ngôn ngữ, như kỹ thuật đằng sau ChatGPT. Nó được huấn luyện trên hàng triệu những bằng chứng tổng quát và gợi ý là những định lý nào và những lý luận nào để thử sắp đến cho một vấn đề. Một khi nó gợi ý
một bước kế tiếp, một cái máy “ lý luận tượng trưng “chậm hơn và cẩn thận hơn dùng các lề luật toán học và logic để hoàn chỉnh cái lập luận mà GPT đã đề nghị. Như thế hai hệ thống làm việc song song, thay phiên nhau cho đến khi vấn đề được giải quyết.
Trong khi phương pháp này trên những bài toán hình học IMO, những câu trả lời nó cấu tạo có khuynh hướng dài hơn và kém “đẹp“ so sánh với những trả lời của người, Lương nói. Nhưng AI có thể thấy những điều mà con người bị sót. Thì dụ máy đã khám phá ra một giải pháp tốt hơn và tổng quát hơn cho một câu hỏi IMO 2004 được liệt kê trong những câu trả lời chỉnh thức.
Giải những bài toán IMO cách ấy là ấn tượng (impressive) Yang - Hui He tại viện khoa học toán London nói, nhưng hê thống này vốn giới hạn (inherently limited) về toán học có thể dùng vì những câu hỏi IMO. phải được giải (should be solvable) dùng những định lý được dậy dưới mức đại học (below undergraduate level) .
Mở rộng khối lương kiến thức toán tiếp cận sẽ có thể cải thiện cái hệ thống và ngay cả giúp nó làm những sáng kiến toán học. Ông ta nói.
TM

I am a research scientist at Google Brain, finding a way to solve language understanding through deep learning.

I enjoyed 5 wonderful years as a PhD student in the Stanford NLP group, learning many many things from my advisor Prof. Christopher Manning.

I am from Vietnam and in case you haven't heard about it, my country has recently discovered Son Doong, the world's largest cave!

Here is my (generally outdated) CV.


News

  • Sep 2016 — Sep 26 marks my first day at Google! Exactly five years ago, I started my first day as a PhD student as Stanford. Time flies! Looking forward to a new journey & come say hi to me at Google!

  • Aug 2016 — We (Christopher Manning, Kyunghuyn Cho and I) gave a tutorial on Neural Machine Translation at ACL 2016 to an audience of over 200 people.

  • June 2016 — Three papers published at ACL and CoNLL, in Berlin, Germany.
    Our paper "Achieving Open Vocabulary Neural Machine Translation with Hybrid Word-Character Models" has "conquered" English-Czech translation.
    We have released our Matlab code too!

  • May 2016 — Busy but fun time! Talks at Google, OpenAI, SemanticsMachine, Baidu, and Facebook. Guest lecture on Neural Machine Translation in the Stanford Deep Learning for NLP class CS224D. More importantly, I have defended my thesis!

  • Mar 2016 — Excited to be in Puerto Rico this May for ICLR 2016!
    Our paper "Multi-task Sequence to Sequence Learning" has achieved state-of-the-art results in constituent parsing with 93 F1.

  • Feb 2016 — Talks at Microsoft Research and USC, ISI.

  • Dec 2015 — In Da Nang, Vietnam, for a panel discussion on "New trends in Spoken Language Translation" at IWSLT.
    We also have a winning entry for English-German TED talk translation, 26% error reduction from the 2nd place.

  • Nov 2015 — Guest lecture on Neural Machine Translation in the Stanford NLP class CS224N.

  • Oct 2015 — Talk at IBM Watson Research.

  • Sep 2015 — Three papers published at EMNLP and CogACLL, in Lisbon, Portugal.
    Our paper "Effective Approaches to Attention-based Neural Machine Translation" achieves the best result in English-German translation.
    We have released our Matlab code too!

  • Jul 2015 — Three papers published at ACL and CoNLL, in Beijing, China.
    Our paper "Addressing the Rare Word Problem in Neural Machine Translation" describes the very first state-of-the-art neural translation system.

  • May 2015 — Two papers at the NAACL VSM workshop, in Colorado, USA.
    Our paper "Bilingual Word Representations with Monolingual Quality in Mind" achieves the best performance in the cross-lingual document classification task.
    Our code which improves and extends word2vec is released too!
Older News

Research

I am now generally interested in deep learning approaches for natural language understanding. In recent years (2014 & 1025), I have researched extensively in the area of neural machine translation.

In the past, I built parsers used for psycholinguistics applications, worked on scholarly digital library systems, and investigated in model-based techniques for robust speech recognition systems.


Publications

2016

  • Minh-Thang Luong and Christopher D. Manning. A Hybrid Word-Character Approach to Open Vocabulary Neural Machine TranslationACL’16.
    Paper ] [ Bib ] [ Project page ] [ SOTA English-Czech translation in WMT ]

  • Joern Wuebker, Spence Green, John DeNero, Sasa Hasan, and Minh-Thang Luong. Models and Inference for Prefix-Constrained Machine TranslationACL’16.
    Paper ] [ Bib ] [ SOTA in the prefix completion task for interactive machine translation ]

  • Abigail See*, Minh-Thang Luong*, and Christopher D. Manning. Compression of Neural Machine Translation Models via PruningCoNLL’16.
    Paper ] [ Bib ] [ Can prune models up to 80% without loss of performance. ]

  • Minh-Thang Luong, Ilya Sutskever, Quoc V. Le, Oriol Vinyals, and Lukasz Kaiser. Multi-task Sequence to Sequence LearningICLR’16.
    Paper ] [ Bib ] [ Poster ] [ SOTA results in constituent parsing, 93 F1 ]

2015

  • Minh-Thang Luong and Christopher D. Manning. Stanford Neural Machine Translation Systems for Spoken Language DomainIWSLT’15.
    Paper ] [ Bib ] [ Slides ] [ IWSLT result overview ] [ SOTA English-German system for TED talks, 26% better than the 2nd place. ]

  • Minh-Thang Luong, Hieu Pham, and Christopher D. Manning. Effective Approaches to Attention-based Neural Machine TranslationEMNLP’15.
    Paper ] [ Bib ] [ Slides ] [ Project page ] [ SOTA results in WMT English-German translation ]

  • Jiwei Li, Minh-Thang Luong, Dan Jurafsky, and Eduard Hovy. When Are Tree Structures Necessary for Deep Learning of Representations?EMNLP’15.
    Paper ] [ Bib ]

  • Minh-Thang Luong, Timothy J. O'Donnell, and Noah D. Goodman. Evaluating Models of Computation and Storage in Human Sentence ProcessingCogACLL’15.
    Paper ] [ Bib ] [ Slides ] [ Code (Earleyx parser) ]

  • Minh-Thang Luong*, Ilya Sutskever*, Quoc V. Le*, Oriol Vinyals, Wojciech Zaremba. Addressing the Rare Word Problem in Neural Machine TranslationACL’15.
    Paper ] [ Bib ] [ Slides ] [ SOTA results in WMT English-French translation ]

  • Jiwei Li, Minh-Thang Luong, Dan Jurafsky. A Hierarchical Neural Autoencoder for Paragraphs and DocumentsACL’15.
    Paper ] [ Bib ]

  • Minh-Thang Luong, Michael Kayser, and Christopher D. Manning. Deep Neural Language Models for Machine TranslationCoNLL’15.
    Paper ] [ Bib ] [ Poster ] [ Project page for code. ]

  • Minh-Thang Luong, Hieu Pham, and Christopher D. Manning. Bilingual Word Representations with Monolingual Quality in MindNAACL’15 VSM workshop.
    Paper ] [ Bib ] [ Project page for code and trained embeddings. ] [ SOTA results in cross-lingual document classification ]

  • Hieu Pham, Minh-Thang Luong, Christopher D. Manning. Learning Distributed Representations for Multilingual Text SequencesNAACL’15 VSM workshop.
    Paper ] [ Bib ]

2013

Before Stanford

Calendar

Thứ Năm, 25 tháng 1, 2024

Whey protein tốt cho người già

 

Tốt hơn sâm và nhung mà rẻ như bèo
Chất đạm WHEY cho người lớn tuổi
Phạm Hiếu Liêm, MD

chatdam4Làm người ai cũng muốn được mạnh khoẻ và sống lâu. Ở phương Đông trước thế kỷ thứ 20, các đạo sĩ vào núi luyện cách trường sinh và có tuổi thọ cao hơn người thường (70-80 tuổi thay vì 50-60 tuổi). Theo khoa học ngày nay, các đạo sĩ Lão Giáo đạt được tuổi thọ nhờ dinh dưỡng tốt vì ăn nhiều trái dâu và những loại quả nhỏ mọng nước không có hạt (berries) mọc hoang trong núi chứa nhiều chất kháng oxy hoá và tập thể dục (quyền Võ Đang) thường xuyên.

Ngày nay nhờ vệ sinh thường thức và y khoa tân tiến, tuổi thọ trung bình ở các nước tiên tiến đã đạt đến gần 80 cho nam giới và hơn 80 cho các cụ bà. Than ôi, với số tuổi đời chồng chất, người già thường bị các bệnh kinh niên và chứng lão suy nên trong nhiều trường hợp, có thọ nhưng không mấy vui vì bệnh tật và ốm yếu. Vì vậy, tại các cộng đồng người Việt ở hải ngoại, báo chí, truyền thanh và truyền hình có nhiều quảng cáo kiểu lang băm bán thuốc dạo lừa đảo người Việt cao niên để bán các loại thuốc thực phẩm phụ gia vô căn cứ.

chatdam2Ngoài ra, chúng ta vẫn thường nghe các cụ dùng Sâm và Nhung là các món đắt tiền để tẩm bổ chống lại lão suy theo truyền thuyết Đông Y.Nhân sâm Cao Ly có tác dụng kích thích làm người dùng cảm thấy hưng phấn nên vẫn được truyền tụng nhưng kết quả trên cơ thể, bắp thịt và tim mạch thì không có gì đáng kể; thậm chí dùng nhiều có thể làm tăng huyết áp, có hại cho tim mạch và não bộ.

Khảo cứu tại Hoa Kỳ trong 30 năm trước cho thấy thú vật sống lâu và khoẻ mạnh khi chúng được nuôi ăn đủ chất dinh dưỡng nhưng với lượng calorie hạn chế hơn 30% của mức bình thường; đó là một điều không thực tế cho con người.

May thay, mấy năm gần đây, khoa học đã cho thấy ngoài dinh dưỡng tốt và tập thể dục thường xuyên, các cụ có thể dùng chất đạm Whey (phát âm là Guây) phụ gia để giúp tăng tuổi thọ, thêm lành mạnh và bớt bệnh tật.

1/ Chất đạm Whey là gì?

chatdam3Sữa (trên thị trường là sữa bò) có nhiều chất đạm.

80% chất đạm trong sữa là casein; phần còn lại (20%) là Whey. Whey là một hỗn hợp của nhiều chất đạm hoà tan, đặc biệt là có rất nhiều chuỗi amino acids phân nhánh (branched chain amino acids- BCAA) như leucine, iso-leucine và valine so với các chất đạm khác. Các amino acids quan trọng này làm bắp thịt phát triển nẩy nở và lành lặn như có đề cập trước đây trong bài Chống Sarcopenia đăng mấy năm trước trên svqy.org (Aging well by fighting Sarcopenia; A tribute to Jack LaLanne) http://www.svqy.org/agingwell.html

Trong kỹ nghệ chế tạo phó mát (cheese), chất đạm Whey trở thành dung dịch phế thải tự nhiên sau khi casein được làm rắn (solid) trong phó mát. Ngày nay, chất đạm Whey được giữ lại để làm thực phẩm phụ gia cho các lực sĩ tập tạ vì có thể giúp họ trở nên lực lưỡng nhanh chóng.

chatdam12/ Tại sao chất đạm Whey phụ gia lại tốt cho người lớn tuổi?

Đại đa số đàn ông gốc Âu và Á bắt đầu có đề kháng (resistance) Insulin ở tuổi 40 trở lên, phụ nữ thì ở khoảng tuổi 50 sau khi tắt kinh (menopause). Từ đó họ bắt đầu có nhiều mỡ trong bụng (phát tướng) dẫn đến một vòng luẩn quẩn khắc nghiệt cuả Hội Chứng Biến Dưỡng (Metabolic Syndrome) với tăng huyết áp, lượng mỡ cholesterol và triglyceride trong máu cao, dễ bị Tiểu Đường loại 2 và các biến chứng tim mạch. Vòng luẩn quẩn này còn có liên hệ đến chứng teo bắp thịt, loãng xương và bệnh lãng trí của lão suy. Ngăn ngừa hội chứng biến dưỡng sẽ giúp cho người cao niên được lành mạnh sống lâu để hưởng thêm hạnh phúc ở tuổi già.

Trong các thí nghiệm gần đây trên thú vật và cả trên người già, chất đạm Whey đã chứng tỏ khả năng giúp người lớn tuổi ngăn ngừa và chế ngự sự lão suy và Hội Chứng Biến Dưỡng vì giúp giảm mập phì, giảm mỡ trong bụng, xuống cân, giảm hiện tượng đói cồn cào, giảm cholesterol, điều hoà huyết áp, bớt đề kháng với insulin, bớt nguy cơ tiểu đường loại 2. Điều đáng chú ý là trong một thí nghiệm dùng hợp chất pha trộn các amino-acids cùng tỷ lệ như tìm thấy trong Whey đưa ra kết quả không tốt như chất đạm Whey thiên nhiên từ sữa, nhất là trên tác dụng giảm cholesterol. Chuột nuôi với chất đạm Whey phụ gia sống lâu hơn mặc dù chúng không bị hạn chế về calorie.

Bệnh nhân đã bị tiểu đường loại 2 có lượng glucose trong máu điều hoà tốt hơn sau khi dùng chất đạm Whey thường xuyên. Lượng insulin giảm xuống và các chỉ số về viêm (inflammation) và oxy hóa cũng giảm bớt nhiều.

Bệnh nhân vừa qua bệnh nặng (nhiễm trùng, sưng phổi, đột quỵ ….) hay sau một cuộc giải phẫu lớn, cơ thể lâm vào tình trạng thoái dưỡng (catabolism) sẽ bình phục nhanh hơn khi dùng chất đạm Whey phụ gia vì cơ thể sẽ tổng hợp protein dễ dàng đạt tới thế tiến dưỡng (anabolism) nhanh chóng trong phục hồi.

3/ Cách dùng chất đạm Whey trong Lão Khoa

Muốn ngăn ngừa Hội Chứng Biến Dưỡng thì nên bắt đầu dùng chất đạm Whey phụ gia ở tuổi 40, dùng khoảng 10 hoặc 20 gram một lần mỗi ngày (2 hay 4 muỗng cà phê, một muỗng cà phê là tương đương với 5 gram).

Các cụ trên 65 tuổi nên dùng 10 đến 12 gram, hai lần mỗi ngày (20 đến 24 gram mỗi ngày).
Đang phục hồi sau giải phẫu hay bệnh nặng nên dùng 15 gram mỗi lần, hai lần mỗi ngày (30 gram mỗi ngày). Thường thường các bệnh nhân này có dùng các bột sữa thực phẩm như Ensure, Sustacal vv…. có chứa chất đạm từ đậu nành hay sữa nhưng vẫn nên dùng Whey phụ gia để có tác dụng phục hồi nhanh chóng hơn như đã nói ở trên.

Chất đạm Whey isolate có bán tại các tiệm thông thường như General Nutrition, Wal-Mart, Costco etc… 15 tới 30 đô la Mỹ có thể mua một hay hai hũ to tướng cho các cụ khuấy bột Whey vào ly nước dùng mỗi ngày trong cả tháng.

Tóm lại, ngoài dinh dưỡng tốt và thể dục đều, chất đạm Whey được khoa học cho thấy có thể giúp chúng ta sống lâu và lành mạnh để hưởng Phước Thọ mà giá lại rẻ hơn Sâm và Nhung rất nhiều. Tài liệu thống kê cho thấy gần 23% người Việt lớn tuổi ở California bị Tiểu Đường loại 2; chất đạm Whey có thể giúp chúng ta tránh được cái đại nạn đó luôn.

Giáo sư y khoa Phạm Hiếu Liêm

Chủ Nhật, 14 tháng 1, 2024

Giai đoạn Y Khoa Đại Học Đường Sài Gòn (1946 – 1975)

Giai đoạn Y Khoa Đại Học Đường Sài Gòn (1946 – 1975)

KHOA Y
 
Khoa Y Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, tiền thân trước năm 1976 là Y Khoa Đại Học Đường Saigon, là một trong những khoa được thành lập đầu tiên của Trường, từ năm 1947.
 
Hiện nay, trong xu thế phát triển chung, với khu vực hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra nhanh chóng và rộng khắp trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế... đòi hỏi Khoa Y phải tăng tốc, đón đầu để phát triển một cách bền vững.
 
Là một cơ sở đào tạo trọng điểm của khu vực phía nam, Khoa Y có sứ mạng chuyển giao kiến thức và đào tạo nhân lực y tế nhằm phục vụ sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển các khoa học sức khoẻ góp phần nâng cao trình độ của nền y học nước nhà.
 
Quá trình hình thành và phát triển của Khoa Y gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Từ khi thành lập đến nay, Khoa đã đào tạo và cung cấp cho đất nước hàng vạn bác sĩ, thạc sĩ, bác sĩ CK I, bác sĩ CKII, tiến sĩ..., đã thực hiện hàng loạt công trình nghiên cứu khoa học, ứng dụng trong phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị các loại dịch bệnh, chế tạo ra các chế phẩm y-sinh.
 
Khoa Y ngày nay là một cơ sở đào tạo trọng điểm của khu vực phía nam, có sứ mạng chuyển giao kiến thức và đào tạo nhân lực y tế nhằm phục vụ sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển các khoa học sức khoẻ góp phần nâng cao trình độ của nền y học nước nhà. Có ba giai đoạn chính từ lúc hình thành, phát triển cho đến nay: giai đoạn trước 1975, giai đoạn từ 1975 đến nay.
 
GIAI ĐOẠN Y KHOA ĐẠI HỌC ĐƯỜNG SÀI GÒN (1946 – 1975)
 
1.1. Cơ sở vật chất:
 
Đại học Y khoa đầu tiên ở Việt Nam là Khoa Y Dược Đông Dương (Faculté mixte de Médecine et de Pharmacie) thuộc Viện Đại học Đông Dương (Université de l’Indochine) đặt ở Hà Nội.
 
Năm 1946 người Pháp mở thêm một chi nhánh ở Sài Gòn với tên Khoa Y Dược Hà Nội, chi nhánh Saigon (Faculté mixte de Médecine et de Pharmacie de Hanoi, Section de Saigon).
 
Sau Hiệp định Genève 1954, cơ sở và nhân sự được dời từ Hà Nội vào Sài Gòn dưới tên mới: Khoa Y Dược, Viện Đại Học Saigon (Faculté mixte de Médecine et de Pharmacie, Université de Saigon). Trụ sở của trường là số 28 đường Testard gần góc với đường Barbé (sau 1955 đổi là Trần Quý Cáp và Lê Quý Đôn). Nguyên đó là đất cũ của ngôi chùa Khải Tường lịch sử. Trên nền chùa lúc ấy là biệt thự của gia đình BS. Henriette Bùi. Henriette Bùi là nữ Bác Sĩ đầu tiên của Việt Nam. Bà mở Dưỡng Đường Sản Phụ Khoa tại biệt thự này từ 1940. Gia đình bà đã hiến tặng biệt thự này để làm trụ sở cho nhà trường. Trường là một biệt thự hai tầng: tầng trên làm văn phòng Khoa Trưởng, phòng Hội Đồng Giáo Sư và cũng là nơi các sinh viên trình luận án - tầng dưới dành cho văn phòng hành chánh, phòng hội và thư viện - đằng sau là khu vườn trống, mấy năm sau xây thêm giảng đường. Hai giảng đường lớn được xây hai bên và 4 giảng đường nhỏ ở giữa xếp theo hình chữ U. [1]
 
Tòa nhà 28 Trần Quý Cáp
 

BS. Henriette Bùi
 
 
 
Ngoài bệnh viện Chợ Rẫy, được xây dựng vào năm 1900, cùng với Viện Pasteur Saigon (thành lập vào năm 1891), là các cơ sở thực tập y khoa có sẵn từ trước, bệnh viện Bình Dân được thành lập vào năm 1954 để bổ sung vào các cơ sở thực tập.
 
Bệnh viện Bình Dân
 
 
Bệnh viện Chợ Rẫy
 
 
 
Năm 1956, Bệnh viện Nhi đồng trên đường Sư Vạn Hạnh bắt đầu hoạt động; đó là cơ sở y tế đầu tiên dành riêng cho bệnh nhi.
 
 
 
Cũng trong năm 1956, Cơ Thể Học Viện được thành lập ở đường Trần Hoàng Quân (nay là đường Nguyễn Chí Thanh), cạnh Bệnh viện Hồng Bàng (nay là Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch).
 
 
 
 
 
Một bệnh viện mới, Bệnh viện Nguyễn văn Học được xây dựng ở Gia Định năm 1967.  Với số giường trên dưới 600, đây là bệnh viện lớn thứ nhì sau bệnh viện Chợ Rẫy (1200 giường). Cũng như các bệnh viện thực tập khác, bệnh viện Nguyễn Văn Học, cũng còn có tên là Trung Tâm Thực tập Y khoa Gia Định, trực thuộc bộ Y tế lúc bấy giờ, nhưng công việc giảng dạy do các nhân viên giảng huấn của Y Khoa Đại Học Đường Saigon đảm nhiệm, gồm các bộ môn Nội, Ngoại khoa, Nhi khoa và Sản Phụ khoa. [2]
  
Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
 
 
 
Tháng 8.1961: Dược khoa tách ra và dọn về trụ sở 169 Công Lý, từ 1964 chuyển về 41, đường Cường Để (nay là đường Đinh Tiên Hoàng).
 
Năm 1963: Nha khoa tách ra và dọn về trụ sở 652 Nguyễn Trãi. Cũng vào những năm này các giáo sư người Pháp lần lượt giải nhiệm và ban giảng huấn chuyển qua tay người Việt. Năm 1962 là năm cuối cùng bằng Bác sĩ Y khoa của Viện Đại học Sài Gòn được công nhận tại Pháp.
 
Năm 1966: Y Khoa và Nha Khoa dọn đến Trung tâm Giáo dục Y khoa, địa điểm mới vừa xây dựng xong ở số 217 đường Hồng Bàng, quận 5. Kinh phí xây dựng lúc bấy giờ là 4 triệu rưỡi Mỹ kim, 50% do cơ quan USAID Hoa Kỳ tài trợ với sự trợ lực của Hiệp Hội Y khoa Hoa Kỳ (American Medical Association, AMA),  50% góp từ ngân sách quốc gia Việt Nam Cộng hòa. Cơ sở mới được một nhóm kiến trúc sư Mỹ - Việt thiết kế, trong đó Công ty CRS (Houston) là trưởng nhóm Hoa Kỳ, và Văn phòng tư vấn kiến trúc của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ là trưởng nhóm Việt Nam. Sau khi xây dựng xong, nhóm kiến trúc sư Mỹ Việt đang tiến hành thiết kế bệnh viện Y khoa thực hành cho trường Y tại một khu đất bên trái (có sân bay trực thăng) nhưng phải ngưng (khu đất này ngày nay có Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh).
 
 
 
 
 
 
 
Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ
 
 
 
Tính đến 1975, Y Khoa Đại Học Đường Saigon là một trong số 8 Trường (Kiến Trúc, Khoa Học, Luật Khoa, Sư Phạm, Văn Khoa, Y Khoa, Dược Khoa, Nha Khoa) trực thuộc Viện Đại Học Saigon. [3]
 
Lý thuyết và thực tập các môn khoa học cơ bản được triển khai tại nhiều nơi như [2]:
 
 Môn Vi trùng và Ký sinh trùng học: Viện Pasteur Saigon
 Môn Sinh hoá học: phòng thí nghiệm Bệnh viện Đô Thành (nay là Bệnh viện Sài Gòn)
 Môn Mô học và Cơ thể bệnh học (nay gọi là Giải phẫu bệnh học): quân y viện Coste (của quân đội Pháp ở gần Thảo Cầm viên, nay là trường nữ trung học Trưng Vương)
 Môn Cơ thể học (nay gọi là Giải phẫu học): Bệnh viện Chợ Rẫy.
 
Các bệnh viện thực tập gồm: 
 
 Bệnh viện Grall (là bệnh viện đa khoa của người Pháp trước 1975, sau này là Bệnh viện Nhi đồng 2): ban đầu sử dụng tối đa lúc về cơ sở, phòng ốc và giảng viên, những năm sau giảm dần.
 Bệnh viện Chợ Rẫy: cho các môn Nội, Ngoại, Tai Mũi Họng, Mắt.
 Bệnh viện Đô Thành (nay là Bệnh viện Sài Gòn): cho các môn Nội, Ngoại, Cấp Cứu, Tai Mũi họng.
 Bệnh viện Chợ Quán (nay là Bệnh viện Bệnh nhệt đới và Bệnh viện Tâm thần): cho môn bệnh truyền nhiễm và bệnh tâm thần.
 Bảo sanh viện Từ Dũ (nay là Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ).
 Viện Bài trừ Hoa liễu (nay là Bệnh viện Da Liễu).
 
Thư viện và báo chí
 
Y khoa Đại học Đường Sài Gòn là nơi lưu trữ nhiều sách báo chuyên môn. Vào thời điểm 1970 thư viện của trường có 7.302 đầu sách tiếng Anh, 4.547 sách tiếng Pháp cùng một số sách tiếng Việt. [4]
 
Ngoài công việc giảng dạy, các nhân viên giảng huấn còn tích cực tham gia khảo cứu. Rất nhiều bài báo cáo khoa học đã được đăng trên các báo y khoa quốc nội và quốc ngoại, những bài này đã được liệt kê trong hai quyển sách Travaux de Recherche Scientifique I và II của GS Nguyễn Hữu và BS Nguyễn Đức Nguyên. Ngoài ra còn có là quyển sách Bibliographie des Thèses của GS Nguyễn Đức Nguyên, trong đó ghi lại đầy đủ tất cả các luận án đệ trình tại hai trường y khoa Saigon và Hà nội từ khi thành lập tới năm 1972. Từ năm 1957 đến 1975, trường cũng chủ biên một tạp chí y khoa là Acta Medica Vietnamica, xuất bản mỗi 3 tháng một lần, tổng biên tập là GS Phạm Biểu Tâm.
 
1.2. Cơ cấu tổ chức:
 
 1946-1950: Daléas. Khoa trưởng của Faculté Mixte de Médecine et de Pharmacie thời bấy giờ là GS. P. Huard, Giáo Sư Daléas làm Phó khoa trưởng kiêm phụ trách Y Khoa nên cũng có thể xem là vị khoa trưởng đầu tiên của trường.
 
 1950-1955: Charles Massias. Sau một vài năm, các Giáo sư Pháp bắt đầu rời khỏi ban giảng huấn. Khởi đầu là việc GS. Massias từ nhiệm, và GS. Phạm Biểu Tâm lên thay thế năm 1955. GS. Phạm Biểu Tâm là vị Khoa Trưởng Việt Nam đầu tiên của Y Khoa đại học ĐườngSaigon.
 
 1955-1967: Phạm Biểu Tâm (Ngày 30.01.1967, GS. Phạm Biểu Tâm từ chức Khoa trưởng và được thay thế bằng một Hội Đồng Khoa Trưởng gồm 5 giáo sư Ngô Gia Hy, Nguyễn Ngọc Huy, Trần Anh, Lê Minh Trí và Nguyễn Thế Minh.
 
 1967-1969: Ngô Gia Hy. Đến tháng 5.1967 GS. Ngô Gia Hy được bầu lên làm Khoa trưởng nhưng đến tháng 7 thì Giáo sư được cử vào làm Thượng Hội Đồng Quốc Gia nên giao toàn quyền Khoa trưởng cho GS. Vũ Thị Thoa.
 
 1969-1970: Phạm Tấn Tước
 1970-1971: Đào Hữu Anh
 1971-1974: Đặng Văn Chiếu
 1974-1975: Vũ Quí Đài
 Từ 1969 đến 1975 các Khoa Trưởng đều được cán bộ giảng bầu lên.
 
Giáo sư Charles Massias
 
 
Giáo sư Phạm Biểu Tâm
 
 
Giáo sư Ngô Gia Hy
 
Giáo sư Vũ Thị Thoa
 
 
Giáo sư Đào Hữu Anh
 
Giáo sư Đặng Văn Chiếu
 
Giáo sư Vũ Quí Đài
 
 
 
Về đội ngũ giảng viên, Giáo sư của trường lúc ban đầu chỉ có 2 người, nên nhà trường đã dùng khả năng giảng huấn của các bác sĩ Quân y Pháp và các bác sĩ Việt Nam ở Saigon, niên khóa 1948-1949 có tới 10 Giáo Sư trong đó có GS. Massias (Nội Khoa) ở Hà Nội vào và GS. Trần Quang Đệ (Ngoại Khoa) từ Pháp về.
 
Từ 1960-1963, đội ngũ Giáo Sư nhanh chóng được bổ sung bằng các thầy tốt nghiệp Thạc Sĩ (Agrégé) từ Pháp:  GS Ngô Gia Hy (Niệu khoa), GS Trần Anh (Nhân chủng học), GS Nguyễn Văn Út (Da Liễu), GS Bùi Quốc Hương (Thần kinh), GS Nguyễn Ngọc Huy (Tim mạch), GS Lê Xuân Chất (Huyết học), GS Đào Đức Hoành (Ung thư) và GS Nguyễn Huy Can (Cơ thể Bệnh lý).
Từ 1965-1966, những thầy cô đào tạo Tiến Sĩ, Thạc Sĩ từ Hoa Kỳ lần lượt trở về và phong Giáo Sư: Nguyễn Khắc Minh (Gây Mê), Bùi Duy Tâm (Sinh hoá), Nguyễn Ngọc Giệp (Phụ Sản), Vũ Quí Đài (Vi Sinh học) - Đỗ Thị Nhuận (Ký Sinh Trùng học), Đào Hữu Anh (Giải Phẫu Bệnh), Hoàng Tiến Bảo (Chỉnh Trực).
 
Nguồn cán bộ giảng còn được bổ sung bằng những chuyên viên ở Châu Âu, Bắc Mỹ trở về như BS Nguyễn Thế Minh (Nội Khoa, Pháp), BS Trần Kiêm Thục (Bệnh Tiêu Hóa, Pháp), BS Trần Thế Nghiệp (Quang Tuyến, Pháp), BS Lê Dư Khương (Giải Phẫu, Đức), BS Liễu Thanh Tâm (Quang Tuyến, Pháp), BS Phó Bá Đa (Giải Phẫu, Mỹ), BS. Hoàng Minh Mậu (Tiêu Hóa, Mỹ), Lê thị Tuyết Nga (Nhi khoa, Pháp), BS. Thái văn Kim (Nhi Khoa, Pháp).
 
Đến niên khóa 1967-1968, tổng số nhân viên giảng huấn là 91, với 16 GS thực thụ, 7 GS diễn giảng, 27 giảng sư, và 41 giảng nghiệm viên.
 
Hàng năm, nhà trường tổ chức thi tuyển giảng viên từ nguồn Bác sĩ  trong nước, những người trúng tuyển như Văn Tần (Ngoại khoa), Võ thành Phụng (Chấn thương chỉnh hình, Phẫu thuật Nhi), Văn Kỳ Chương (Ngoại Khoa), Văn Kỳ Nam (Ngoại Khoa), Nguyễn văn Điền (Chấn thương Chỉnh hình), Lê Kính (Chấn Thương Chỉnh Hình), Đặng Phú Ân (Niệu khoa), Nguyễn Thị Bích Tuyết (Sản Phụ khoa), Trần thị Minh Châu (Sản Phụ khoa), Trần Ngọc Bảo (Nội Khoa), Trần Đình Đôn (Nhi khoa), Nguyễn Bá Duy (Nhi Khoa), Phạm Long Trung (Lao và bệnh Phổi), Bùi Quang Minh (Lao và bệnh Phổi), Nguyễn Ngọc Lĩnh (Truyền Nhiễm), Nguyễn thị Trà Mi (Da Liễu), Lê Sỹ Quang (Sinh Lý), Lê Tiến Văn (Vi Sinh), Nguyễn thị Minh Chí (Vi Sinh), Bồ Kim Khánh (Vi Sinh), Mạnh Xuân Văn (Sinh Hóa), Trần thị Hồng Nhung (Sinh Hóa), Đinh Hải Tùng (Vi Sinh), Mùi Quý Bồng (Ký Sinh học), Đỗ Danh Thụy (Ký Sinh học), Phạm văn Ngà (Giải Phẫu Bệnh), Trần Xuân Mai (Vi Nấm & Ký Sinh Học), Nguyễn Thúy San (Vi Nấm & Ký Sinh Học), Bùi đắc Chí (Mô Phôi), Phùng Hữu Chí (Tiêu Hóa), Hoàng Xuân Chỉnh (Tiêu Hóa), Nguyễn Phú Hiếu (Tiêu Hóa), Đặng Thị Bạch Yến (Tim Mạch), …. Các giảng viên này được qui hoạch để đi du học, bồi dưỡng nghiệp vụ ở Hoa Kỳ và châu Âu.  Đội ngũ nhân viên giảng huấn được sắp xếp theo 5 cấp:
 
 Giáo Sư Thực Thụ (Professeur tiltulaire)
 Giáo Sư Diễn Giảng (Professeur délégué)
 Giáo Sư Ủy Nhiệm (Professeur fonctionnel)
 Giảng Sư (Chargée de Cours)
 Giảng Nghiệm Trưởng (Assistant chef)
 Giảng Nghiệm viên (Assistant)
 
 
Những người tốt nghiệp đại học có thời gian học dưới 7 năm (Dược Sĩ, Cử Nhân, Kỹ Sư, …), thi đậu kỳ thi tuyển giảng viên của nhà trường, sẽ được bổ nhiệm Giảng Viên.
 
Những người tốt nghiệp đại học có thời gian học 7 năm (Bác Sĩ), thi đậu kỳ thi tuyển giảng viên của nhà trường, được bổ nhiệm Giảng Nghiệm Trưởng.
 
Những người tốt nghiệp Tiến Sĩ , thi đậu kỳ thi tuyển giảng viên của nhà trường, hoặc những Giảng Nghiệm Trưởng có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy, được bổ nhiệm Giảng Sư.
 
Những Giảng Sư có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy sẽ được bổ nhiệm Giáo Sư Ủy Nhiệm
 
Những Giáo Sư Ủy Nhiệm có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy sẽ được bổ nhiệm Giáo Sư Diễn Giảng.
 
Những Giáo Sư Diễn Giảng có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy sẽ được bổ nhiệm Giáo Sư Thực Thụ
 
Từ Giảng Sư trở lên có quyền hướng dẫn Luận Án và tham gia Hội Đồng chấm Luận Án do Trưởng Khoa bổ nhiệm.
 
Đến niên khóa 1967-1968, Y Khoa Đại Học Đường Saigon có 91 cán bộ giảng với 16 GS thực thụ, 7 GS diễn giảng, 27 giảng sư, và 41 giảng nghiệm trưởng – giảng nghiệm viên. [5]
 
Về hệ thống trợ giảng, có các Nghiệm chế viên (préparateur) cho các bộ môn y học cơ sở. Các nghiệm chế viên này được tuyển hàng năm để trợ giảng cho đội ngũ giảng viên.  Ứng viên là các sinh viên y khoa năm thứ 4 - 6, phải qua một bài thi viết, một bài thực hành và một bài thuyết trình 5 phút trước Ban Chủ Nhiệm Bộ Môn. Nếu được tuyển dụng và chính thức bổ nhiệm, người này sẽ được hưởng một mức lương tương đương 50% lương một bác sĩ mới ra trường. Công việc chính là chuẩn bị và giảng thực tập cho sinh viên, phụ Giáo Sư tiến hành nghiên cứu khoa học (kết hợp làm Luận Án).
 
Về Nội trú các bệnh viện (Interne des hopitaux): tại các bộ môn lâm sàng có nhu cầu, nhà trường tổ chức thi tuyển nội trú. Ứng viên là các sinh viên y khoa năm thứ 5, thứ 6, phải qua một bài thi viết GIải Phẫu, Sinh Lý  và một bài thuyết trình 5 phút trước Ban Chủ Nhiệm Bộ Môn. Nếu trúng tuyển, ứng viên sẽ chính thức bổ nhiệm và ưu tiên chọn Bộ Môn/Bệnh Viện theo kết quả xếp hạng. Các nội trú vẫn tiếp tục học như các bạn khác trong lớp, phần lớn thời gian của họ là ở bệnh viện để phụ giúp các thầy/cô trong giảng dạy lâm sang và nghiên cứu khoa học (kết hợp làm Luận Án). Khi ra trường, ngoài tước vị Bác Sĩ Y Khoa, họ còn có quyền sử dụng tước vị “Cựu Nội Trú Các Bệnh Viện” trong khi hành nghề.   
 
Ngoài ra, còn có các Nội trú Ủy nhiệm (Interne fonctionnel): sinh viên năm thứ 6, nếu có nhu cầu làm việc như Nội trú, có thể xin Giáo Sư Trưởng Bộ Môn, nếu được chấp thuận, Giám Đốc Bệnh Viện nơi Bộ Môn hợp tác có thể ký quyết định bổ nhiệm, kỳ hạn 6 tháng, có thể tái hạn. Khi ra trường, ngoài tước vị Bác Sĩ Y Khoa, họ không được quyền sử dụng tước vị “Cựu Nội Trú Các Bệnh Viện” trong khi hành nghề.   
 
1.3. Sinh viên và học trình
 
Niên khóa đầu 1946-1947 chỉ có khoảng 12 người cho tất cả các lớp. Niên khóa 1947-1948 có 32 người. Niên khóa 1948-1949 tăng lên tới trên 80 người.Vào thập niên 1970 Trường Y khoa có 1400 sinh viên theo học và mỗi năm cho ra trường hơn 200 người. Số sinh viên nộp đơn dự tuyển là hơn 5.000 để chiếm 200 chỗ nhập học mỗi năm.
 
Thời đó ở Việt Nam cũng như ở bên Pháp muốn đậu bằng y khoa bác sĩ phải đậu xong hai phần tú tài (I và II), qua một năm đầu tiên tại Đại Học Khoa Học và 6 năm y khoa. Từ 1954 đến 1962 muốn vào y khoa phải có chứng chỉ PCB (Physique – Chimie - Biologie) rồi ghi danh vào học; từ 1963 đến 1969, nhà trường tuyển sinh từ Tú Tài 2, sau đó gởi sang Đại Học Khoa Học học chứng chỉ APM (Année Pré-Medicine, Dự Bị Y Khoa); từ 1970 đến 1975 đổi từ APM sang SPCN (Science naturelle - Physique - Chimie).
 
Học trình y khoa là 6 năm theo khuôn mẫu y khoa Pháp. Hai năm đầu học các môn cơ thể họcmô họcsinh hóa họcsinh lý, và triệu chứng học. Năm thứ ba và tư học các môn cơ thể bệnh lýnội khoa và ngoại khoa. Cũng hai năm này sinh viên bắt đầu đi thực tập ở các bệnh viện. Năm thứ năm và sáu chuyển sang các môn bệnh lý chuyên môn: nhi khoasản phụ khoatâm thần... và tăng thời gian thực tập ở các bệnh viện. Năm thứ sáu cũng là năm hoàn tất luận án.
 
Văn bằng Tiến Sĩ Y Khoa Quốc Gia được cấp phát sau khi bảo vệ thành công Luận Án trước Hội Đồng do Khoa Trưởng bổ nhiệm. [6]
 
Bảo vệ Luận Án Tiến Sĩ Y Khoa trước Hội Đồng
 
 Đọc lời thề Hippocrates
 
 
Số Bác sĩ ra trường hàng năm của hai trường Y ở Saigon và Hà Nội 1947-1952:   
 
     
      
 
 
Khoá ra trường đầu tiên vào năm 1947. Có 7 sinh viên trình luận án. Đó là các bác sĩ Pierre Boucheron, Trần Đình Đệ, Lê văn Hùng, Trần Minh Mẫn, Mme A. Saint Mieux, Lê Văn Thuấn và Nguyễn Văn Thọ. Trong số 7 vị này có tới 3 vị đã lựa chọn đề tài về sản phụ khoa để làm luận án, chứng tỏ sự hoạt động mạnh mẽ của bảo sanh viện Từ Dũ ngay từ hồi đó. [3]
 
Theo tài liệu của GS Nguyễn Đức Nguyên, tổng số luận án được trình và chấp thuận tại Y Khoa Đại Học Đường Saigon từ năm 1947 cho tới 1972 là 1779 luận án. Số luận án từ 1972 tới 1975 là bao nhiêu không rõ vì không có ghi chép trong tài liệu nào. Tuy nhiên với sĩ số 200 người một lớp, ta có thể ước tính là có vào khoảng trên dưới 600 luận án đã được trình trong thời kỳ đó. Như vậy, tổng số luận án ra trường của Y Khoa Đại Học Đường Saigon từ 1947 cho tới 1975 là vào khoảng 2380 luận án. [7]
 
Sinh viên Trường Đại học Y khoa Sài Gòn có ra một tờ báo định kỳ mang tên Tình Thương, xuất bản từ năm 1964 đến năm 1967 thì phải đình bản.
 
 
 
 
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: